KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 297 - SƠN THỦY MÔNG ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Sơn Thủy Mông trong Kinh Dịch

Sơn Thủy Mông: Muội dã. Bất minh. Tối tăm, mờ ám, không minh bạch, che lấp, bao trùm, phủ chụp, ngu dại, ngờ nghệch. Thiên võng tứ trương chi tượng: tượng lưới trời giăng bốn mặt.

Mông có nghĩa là tối, là các vật mới sinh, cũng là mờ tối chưa sáng. Khảm gặp Cấn tức là trong hiểm ngoài đỗ, trong nhà đã không yên ổn, mặt ngoài lại đi không được. Hoặc có nghĩa là một mặt bị lực lượng bảo thủ lôi kéo, nhưng mặt kia bị lực lượng cấp tiến thúc đẩy, dẫn tới khó nghĩ, phân vân và mù mờ.

Hình ảnh quẻ Sơn Thủy Mông

Thoán từ: Mông hanh, phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cốc, tái tam độc, độc tắc bất cốc, lợi trinh.

Trẻ thơ được hanh thông. Không phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ thơ tìm ta. Hỏi (bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo. Hợp với đạo chính thì lợi (thành công).

Tượng quẻ: Quẻ Mông trước mặt có núi chặn, sau lưng lại có sông ngăn.

Theo nghĩa của quẻ thì cấn là ngưng, Khảm là hiểm. Ở trong (nội quái) thì hiểm, mà ở ngoài (ngoại quái) thì ngưng, không tiến được, tỏ ra ý mù mờ, cho nên gọi là Mông.
Xét theo hình tượng thì ở trên có núi (Cấn), dưới chân núi có nước sâu (khảm), cũng có nghĩa tối tăm (Mông). Cũng có thể giảng là dưới chân núi có suối nước trong, tức như hạng người còn nhỏ (khi thành sông mới là lớn), hạng "đồng mông", cho nên gọi quẻ này là Mông (mông có nghĩa là non yếu).
Đặc biệt quẻ này chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc trung làm chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị, khải mông (tức mở mang cái tối tăm) cho trẻ. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành tất có kết quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông.
Tư cách của thầy cương, của trò nhu, cho nên thầy không phải cầu trò, mà trò phải cầu thầy. Và khi dạy, trò hỏi một lần thì bảo, nếu hỏi 2, 3 lần thì là nhàm, không bảo. Giữ được đạo chính (hoặc bồi dưỡng chính nghĩa) thì lợi thành công.

2. Quẻ Sơn Thủy Mông động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

木長春天根幹老
子實三秋枝葉凋
不凋不謝
不見根牢.

Dịch âm:

Mộc trưởng xuân thiên căn cán lão
Tử thực tam thu chi diệp điêu
Bất điêu bất tạ
Bất kiến căn lao.

Dịch nghĩa:

Cây lớn trời Xuân rễ phải già
Trái mọc ba mùa cành lá héo
Chẳng héo chẳng rụng
Đâu biết đến sự khó nhọc của rễ cây.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Vật dụng thú nữ, khiến kim, phu bất hữu cung, vô du lợi." (Chớ lấy người con gái đó làm vợ, thấy của hồi môn, thì chông không còn thân mạng, chẳng có lợi gì.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về sự bất như ý, mọi thất bại đều do kiêu căng mà ra. Nếu biết giữ gìn cẩn thận thì đâu đến nỗi phải gánh hậu quả tai hại như vậy. Người được quẻ này đối với việc mưu cầu hãy nên suy tính thật kỹ để tránh những điều không hay xảy ra. Tượng của quẻ là tiền cát hậu hung, nguy hiểm trùng điệp, phải thận trọng đề phòng.
Quẻ này chủ sự bất đắc ý, chỉ tại thất bại, trụy lạc quá lẹ. Trụy lạc, thất bại đều do ở sự kiêu căng mà ra. Nếu biết giữ gìn cẩn thận thì đâu đến nổi hậu quả tai hại như vậy. Cho nên Người xin quẻ này phải coi như một roi quất vào mặt.
Hai câu đầu thực là tốt thay, thành ra cái việc cầu xin hãy nên suy tính. Tính thật kỹ là để tránh những điều không xảy ra cho bạn đó là ý quẻ mách ta thận trọng.
Tiền cát hậu hung, nguy hiểm đến điệp trùng, thận trọng đề phòng gặp cảnh không may xảy ra. Cần bố đức. Đánh số xấu.

Con số linh ứng: 2, 6, 9, 26, 29, 62, 92, 96.