KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 300 - SƠN THỦY MÔNG ĐỘNG HÀO LỤC

1. Quẻ Sơn Thủy Mông trong Kinh Dịch

Sơn Thủy Mông: Muội dã. Bất minh. Tối tăm, mờ ám, không minh bạch, che lấp, bao trùm, phủ chụp, ngu dại, ngờ nghệch. Thiên võng tứ trương chi tượng: tượng lưới trời giăng bốn mặt.

Mông có nghĩa là tối, là các vật mới sinh, cũng là mờ tối chưa sáng. Khảm gặp Cấn tức là trong hiểm ngoài đỗ, trong nhà đã không yên ổn, mặt ngoài lại đi không được. Hoặc có nghĩa là một mặt bị lực lượng bảo thủ lôi kéo, nhưng mặt kia bị lực lượng cấp tiến thúc đẩy, dẫn tới khó nghĩ, phân vân và mù mờ.

Hình ảnh quẻ Sơn Thủy Mông

Thoán từ: Mông hanh, phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cốc, tái tam độc, độc tắc bất cốc, lợi trinh.

Trẻ thơ được hanh thông. Không phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ thơ tìm ta. Hỏi (bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo. Hợp với đạo chính thì lợi (thành công).

Tượng quẻ: Quẻ Mông trước mặt có núi chặn, sau lưng lại có sông ngăn.

Theo nghĩa của quẻ thì cấn là ngưng, Khảm là hiểm. Ở trong (nội quái) thì hiểm, mà ở ngoài (ngoại quái) thì ngưng, không tiến được, tỏ ra ý mù mờ, cho nên gọi là Mông.
Xét theo hình tượng thì ở trên có núi (Cấn), dưới chân núi có nước sâu (khảm), cũng có nghĩa tối tăm (Mông). Cũng có thể giảng là dưới chân núi có suối nước trong, tức như hạng người còn nhỏ (khi thành sông mới là lớn), hạng "đồng mông", cho nên gọi quẻ này là Mông (mông có nghĩa là non yếu).
Đặc biệt quẻ này chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc trung làm chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị, khải mông (tức mở mang cái tối tăm) cho trẻ. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành tất có kết quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông.
Tư cách của thầy cương, của trò nhu, cho nên thầy không phải cầu trò, mà trò phải cầu thầy. Và khi dạy, trò hỏi một lần thì bảo, nếu hỏi 2, 3 lần thì là nhàm, không bảo. Giữ được đạo chính (hoặc bồi dưỡng chính nghĩa) thì lợi thành công.

2. Quẻ Sơn Thủy Mông động hào lục theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

三天曾結社
四海盡知名
長騎駿馬
直入天庭.

Dịch âm:

Tam thiên tằng kết xã
Tứ hải tận tri danh
Trường kỵ tuấn mã
Trực nhập thiên đình.

Dịch nghĩa:

Ba ngày kết bạn
Bốn biển đã nghe danh
Cỡi bền (lâu) tuấn mã
Thẳng đến thiên đình.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu." (Đánh kẻ vô tri, không nên làm giặc mà nên chống giặc.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về nghề nghiệp không cần nhiều mà chỉ cần giỏi. Người cầu quẻ này, công việc làm ăn phải trải qua nhiều lần cố gắng mới đạt thành. Bạn hãy cố gắng nhẫn nại vượt qua rồi khó khăn sẽ như ý.
Quẻ này cho biết: Nghề nghiệp không cần nhiều mà chỉ cần tinh. Tục ngữ có câu: Nhất nghệ tinh nhất thân vinh. Bởi thế chuyên hẳn một nghề đến chỗ tinh vi, thì việc mưu sinh thì còn có gì đáng lo ngại nữa. Lúc đó thần thì thanh, khí thì sảng, tâm vừa nhàn mà thân lại an nữa. Đây là một tấm gương sáng soi chung cho tất cả ai ưa bao biện, nghề thì có nhiều nhưng chả tinh được nghề nào.
Theo ý quẻ cho hay, cũng như theo kinh nghiệm của chúng tôi, những người cầu được quẻ này, và cầu về công việc làm ăn, thì luôn luôn ứng vào là công việc ấy phải trải qua ba lần cố gắng mới đạt được ý muốn, và sự thành đạt thực là tốt đẹp.
Vậy bạn hãy cố gắng nhẫn nại vượt qua những khó khăn nếu gặp rồi sẽ như ý. Thất bại, rồi mới thành công. Cố gắng ắt nên việc. Đánh

Con số linh ứng: 9, 29, 92, 99.