KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 310 - SƠN THIÊN ĐẠI SÚC ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Sơn Thiên Đại Súc trong Kinh Dịch

Sơn Thiên Đại Súc: Tụ dã. Tích tụ. Chứa tụ, súc tích, lắng tụ một chỗ, dự trữ, đựng, để dành. Đồng loại hoan hội chi tượng: đồng loại hội họp vui vẻ, cục bộ.
Mình không có càn bậy (Vô vọng) rồi bản thân mới có thể chứa được nhiều tài, đức, hoài bão, nên sau quẻ vô vọng, tới quẻ Đại súc. Chữ súc trong quẻ này cũng là chữ súc trong quẻ Phong thiên tiểu súc, có ba nghĩa: Nhóm chứa, nuôi nấng, ngăn lại. Thoán từ dùng theo nghĩa chứa (súc tích, uẩn súc), mà Hào từ dùng với nghĩa ngăn lại.

Quẻ Đại Súc tượng trưng cho sự đốc thực, sự bành trướng có kiểm soát, hay cũng có thể hiểu là con người có trí rộng, bằng tính cách điềm tĩnh lập nên sự nghiệp hiển hách. Tuy nhiên cần lưu ý bản thân tự kìm hãm mình.

Hình ảnh quẻ Sơn Thiên Đại Súc

Thoán từ: Đại Xúc lợi trinh, bất gia thực, cát, lợi thiệp đại xuyên.

Chứa lớn: Chính đáng (theo chính đạo) thì lợi. Không phải ăn cơm nhà (tức được hưởng lộc của vua), tốt; vượt qua sông lớn (làm việc khó khăn, gian nguy để giúp nước) thì lợi.

Tượng quẻ: Ngoại quái Cấn, nội quái Càn. Càn chính là cương kiện, còn Cấn là đốc thực chính vì thế không nên quá cứng rắn sẽ được đại chính rất tốt.

Trên là núi, dưới là trời, núi mà chứa được trời thì sức chứa của nó thật lớn, cho nên gọi là Đại súc. Nói về bậc quân tử thì phải "chứa" tài đức, nghĩa là tu luyện cho tài đức uẩn súc; trước hết phải cương kiện như quẻ Càn, phải rất thành thực, rực rỡ (có văn vẻ) như quẻ Cấn, mà những đức đó phải mỗi ngày một mới, nhật tân kì đức (Thoán truyện); phải biết cho đến nơi đến chốn, làm cho đến nơi đến chốn, đủ cả tri lẫn hành (đại tượng truyện).
Người nào "uẩn súc" được như vậy thì được quốc gia nuôi, và khi xã hội gặp gian truân thì cứu được (vượt qua sông lớn), vì ứng với trời (như hào 5 ở vị cao ứng với hào 2 trong quẻ Càn là trời).

2. Quẻ Sơn Thiên Đại Súc động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

四十餘年苦已深
而今汝樂度光陰
莫籌論
恩愛尚多歡喜事
惜甚青春
不減青春.

Dịch âm:

Tứ thập dư niên khổ dĩ thâm
Nhi kim nhữ lạc độ quang âm
Mạc trù luận
Ân ái thượng đa hoan hỉ sự
Tích thậm thanh xuân
Bất giảm thanh xuân.

Dịch nghĩa:

Hơn bốn mươi năm khổ đã nhiều, mà nay mới được hưởng ngày vui, đừng lo tính, nhiều năm ân ái vui chung hưởng, tiếc nuối thuở thanh xuân, đâu thể
Nào níu kéo lại được.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Đồng ngưu chi cốc. Vô cữu." (Nhốt con trâu nhỏ để nuôi dưỡng nó. Hào này không có tai họa.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng trở ngại, cần phải chờ đến mùa xuân hoa nở mới có thể thuận buồm xuôi gió. Trong lúc này nên tu dưỡng chí khí và tài nghệ của mình cho thành thục, đợi đến lúc đến thời mà hành động. Việc mưu cầu của bạn đã cố công trồng thì sẽ được hái quả. Bạn chỉ cần ráng chờ đợi một thời gian nữa, ắt ý nguyện sẽ đạt thành.
Quẻ này tượng việc có trở ngại, cần phải tới buổi xuân hoa nở mới có thể thuận tay hành động được. Khi thời cơ đã tới thì càng ngày càng tiến bộ hết sức nhanh chóng. Người xin được quẻ này thiết tưởng nên thuận thời mà hành động.
Việc cầu của bạn như quẻ thơ đã nói, đã cố công trồng thì sẽ ăn quả. Nhưng chỉ cần đợi thời gian trái chín mà thôi.
Vậy việc cầu xin của bạn ráng chờ đợi một thời gian nữa, ắt thành đạt ý nguyện mà sự thành đạt ấy sẽ được hạnh phúc vô cùng. Như câu chót của quẻ thơ nói hoa nở đầy đường tươi đẹp.
Vận thông rồi, nhưng đợi chờ "chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu", đó là chuyện dĩ nhiên, lo gì.

Con số linh ứng: 3, 9, 30, 39, 90, 93.