KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 309 - SƠN THIÊN ĐẠI SÚC ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Sơn Thiên Đại Súc trong Kinh Dịch

Sơn Thiên Đại Súc: Tụ dã. Tích tụ. Chứa tụ, súc tích, lắng tụ một chỗ, dự trữ, đựng, để dành. Đồng loại hoan hội chi tượng: đồng loại hội họp vui vẻ, cục bộ.
Mình không có càn bậy (Vô vọng) rồi bản thân mới có thể chứa được nhiều tài, đức, hoài bão, nên sau quẻ vô vọng, tới quẻ Đại súc. Chữ súc trong quẻ này cũng là chữ súc trong quẻ Phong thiên tiểu súc, có ba nghĩa: Nhóm chứa, nuôi nấng, ngăn lại. Thoán từ dùng theo nghĩa chứa (súc tích, uẩn súc), mà Hào từ dùng với nghĩa ngăn lại.

Quẻ Đại Súc tượng trưng cho sự đốc thực, sự bành trướng có kiểm soát, hay cũng có thể hiểu là con người có trí rộng, bằng tính cách điềm tĩnh lập nên sự nghiệp hiển hách. Tuy nhiên cần lưu ý bản thân tự kìm hãm mình.

Hình ảnh quẻ Sơn Thiên Đại Súc

Thoán từ: Đại Xúc lợi trinh, bất gia thực, cát, lợi thiệp đại xuyên.

Chứa lớn: Chính đáng (theo chính đạo) thì lợi. Không phải ăn cơm nhà (tức được hưởng lộc của vua), tốt; vượt qua sông lớn (làm việc khó khăn, gian nguy để giúp nước) thì lợi.

Tượng quẻ: Ngoại quái Cấn, nội quái Càn. Càn chính là cương kiện, còn Cấn là đốc thực chính vì thế không nên quá cứng rắn sẽ được đại chính rất tốt.

Trên là núi, dưới là trời, núi mà chứa được trời thì sức chứa của nó thật lớn, cho nên gọi là Đại súc. Nói về bậc quân tử thì phải "chứa" tài đức, nghĩa là tu luyện cho tài đức uẩn súc; trước hết phải cương kiện như quẻ Càn, phải rất thành thực, rực rỡ (có văn vẻ) như quẻ Cấn, mà những đức đó phải mỗi ngày một mới, nhật tân kì đức (Thoán truyện); phải biết cho đến nơi đến chốn, làm cho đến nơi đến chốn, đủ cả tri lẫn hành (đại tượng truyện).
Người nào "uẩn súc" được như vậy thì được quốc gia nuôi, và khi xã hội gặp gian truân thì cứu được (vượt qua sông lớn), vì ứng với trời (như hào 5 ở vị cao ứng với hào 2 trong quẻ Càn là trời).

2. Quẻ Sơn Thiên Đại Súc động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

曾把樹栽
也要待春來
東風嫋嫋
開遍花街.

Dịch âm:

Tằng bả thụ tài
Dã yếu đãi xuân lai
Đông phong niệu niệu
Khai biến hoa nhai.

Dịch nghĩa:

Đã từng trồng cây
Biết chờ mùa Xuân đến
Gió đông hây hẩy
Nở rộ đường hoa.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Lương mã trục, lợi gian trinh. Viết lan dư vệ. Lợi hữu du vãng." (Ngựa giỏi bị mất. Hào này có lợi cho người hỏi về việc gian nan. Lời hào bảo, hãy giữ gìn xe cho tốt, đi xa có lợi.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về tranh cạnh, chiến đấu, gian nan, vất vả. Nhưng hiện thời vận đã đến lúc hanh thông. Song những mưu tính sẽ phải tranh cạnh với bọn tiểu nhân. Rốt cuộc chính cũng thắng tà. Cầu tài, cầu danh đều thành đạt.
Quẻ này chủ chánh không thắng tà, lý chẳng thắng số. Cạnh tranh, chiến đấu, ắt phải một chết, một sống, lẽ trời rõ ràng là như thế. Người xin được quẻ này nên hiểu rằng chánh bất tất phải tự cưỡng tranh vật lộn làm gì.
Ý quẻ mách rằng hiện nay thời vận đã đến lúc hanh thông, tất cả việc cầu dễ dàng hơn trước rồi, song những việc mưu tính phải chính đáng ngay thẳng, không nên dính đến ma tà thì mới nên. Bởi bài thơ ví rằng Long Xà đấu sức, ý chỉ con rồng là chính con rắn thuộc tà ma và cuối cùng tà ma bị giết. Đó là đi đường chính đạo, chớ nên theo đường tà ma mà có hại đấy.
Vậy bạn cầu mưu những việc gì cần phải nhờ đến phước đức, ắt sẽ được bình an và làm ăn dễ chịu.
Có cuộc ganh đua. Cuối cùng chính thắng tà. Hanh thông, tốt đẹp.
Biểu tượng: rồng, rắn. Đánh số được.

Con số linh ứng: 3, 8, 30, 38, 80, 83.