KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 311 - SƠN THIÊN ĐẠI SÚC ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Sơn Thiên Đại Súc trong Kinh Dịch

Sơn Thiên Đại Súc: Tụ dã. Tích tụ. Chứa tụ, súc tích, lắng tụ một chỗ, dự trữ, đựng, để dành. Đồng loại hoan hội chi tượng: đồng loại hội họp vui vẻ, cục bộ.
Mình không có càn bậy (Vô vọng) rồi bản thân mới có thể chứa được nhiều tài, đức, hoài bão, nên sau quẻ vô vọng, tới quẻ Đại súc. Chữ súc trong quẻ này cũng là chữ súc trong quẻ Phong thiên tiểu súc, có ba nghĩa: Nhóm chứa, nuôi nấng, ngăn lại. Thoán từ dùng theo nghĩa chứa (súc tích, uẩn súc), mà Hào từ dùng với nghĩa ngăn lại.

Quẻ Đại Súc tượng trưng cho sự đốc thực, sự bành trướng có kiểm soát, hay cũng có thể hiểu là con người có trí rộng, bằng tính cách điềm tĩnh lập nên sự nghiệp hiển hách. Tuy nhiên cần lưu ý bản thân tự kìm hãm mình.

Hình ảnh quẻ Sơn Thiên Đại Súc

Thoán từ: Đại Xúc lợi trinh, bất gia thực, cát, lợi thiệp đại xuyên.

Chứa lớn: Chính đáng (theo chính đạo) thì lợi. Không phải ăn cơm nhà (tức được hưởng lộc của vua), tốt; vượt qua sông lớn (làm việc khó khăn, gian nguy để giúp nước) thì lợi.

Tượng quẻ: Ngoại quái Cấn, nội quái Càn. Càn chính là cương kiện, còn Cấn là đốc thực chính vì thế không nên quá cứng rắn sẽ được đại chính rất tốt.

Trên là núi, dưới là trời, núi mà chứa được trời thì sức chứa của nó thật lớn, cho nên gọi là Đại súc. Nói về bậc quân tử thì phải "chứa" tài đức, nghĩa là tu luyện cho tài đức uẩn súc; trước hết phải cương kiện như quẻ Càn, phải rất thành thực, rực rỡ (có văn vẻ) như quẻ Cấn, mà những đức đó phải mỗi ngày một mới, nhật tân kì đức (Thoán truyện); phải biết cho đến nơi đến chốn, làm cho đến nơi đến chốn, đủ cả tri lẫn hành (đại tượng truyện).
Người nào "uẩn súc" được như vậy thì được quốc gia nuôi, và khi xã hội gặp gian truân thì cứu được (vượt qua sông lớn), vì ứng với trời (như hào 5 ở vị cao ứng với hào 2 trong quẻ Càn là trời).

2. Quẻ Sơn Thiên Đại Súc động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

三冬足
文藝精
到頭處
亦成冰
急急回首
勿誤前程.

Dịch âm:

Tam đông túc
Văn nghệ tinh
Đáo đầu xứ
Diệc thành băng
Cấp cấp hồi thủ
Vật ngộ tiền trình.

Dịch nghĩa:

Ba mùa Đông vừa đủ
Nghề văn đã tinh thông
Việc đến lúc sau cùng
Bổng trở thành băng giá
Mau hồi đầu tỉnh ngộ
Đừng đi tiếp mà lầm lẫn.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Phần thỉ chi nha. Cát." (Nhốt con heo thiến trong chuồng. Hào này cát tường.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng "khổ tận cam lai", phúc đến tuy muộn nhưng chẳng nên buồn phiền. Người được quẻ này phải biết thương tiếc tuổi thanh xuân của mình. Mưu cầu của bạn sẽ đạt thành nhưng hơi chậm, cần phải ẩn nhẫn chờ một thời gian.
Quẻ này tượng khổ tận cam lai, phúc tuy muộn nhưng tốt, tuổi đã già mà càng khỏe, đủ để tự mình vui với mình. Người xin được quẻ này : tự nhiên hiểu lấy mình, chẳng nên buồn phiền chi.
Tất cả trọng tâm khuyên dạy của quẻ là phải biết thương tiếc thanh xuân, mà già vẫn tươi. Hai chữ "Thanh xuân" nên đáng được lưu ý. Vì hai chữ ấy ngoài nói trẻ đẹp mà còn ẩn ý nói sự tốt đẹp đó.
Đúng vậy nếu bạn giữ được mọi sự tốt đẹp cho gia đình thì gia đạo ắt sẽ vui vẻ, cũng như mọi việc mưu tính.
Vận vừa phải. Tính toán chưa thông, cần ẩn nhẫn chờ thời gian tạo hòa an. Cầu sự còn chậm.

Con số linh ứng: 10, 13, 30, 31.