KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 202 - PHONG THIÊN TIỂU SÚC ĐỘNG HÀO TỨ
1. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc trong Kinh Dịch
Phong Thiên Tiểu Súc: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu.
Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ]
Chữ súc này có nghĩa là nuôi (như mục súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa: ngăn lại, kiềm chế.
Súc có nghĩa là đậu, là hợp. Lục Tứ là chủ quẻ. Tượng hình cho một thời đại, hay một tình thế tiểu nhân lấn át quân tử, thủ đoạn tiểu xảo thắng được chính sách quang minh chính đại. Tốn thuộc Âm, thể mềm thuận, sự nhún thuận làm cho sự mềm cứng mạnh. Hào Tư là hàm âm, hào năm là hào Dương được ngôi nên đạo mềm thuận. Quẻ Tiểu Súc chứa hợp cái nhỏ, lấy cái nhỏ để chứa cái lớn.
Hình ảnh quẻ Phong Thiên Tiểu Súc
Thoán từ: Tiểu súc hanh, mật vân bất vũ, tự ngã tây giao.
Ngăn căn nhỏ (hoặc chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại, gom lại) hanh thông. Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta.
Tượng quẻ: Quẻ Tiểu Súc có quẻ Tốn trên và Càn dưới. Càn là vật ở trên nhưng trong quẻ lại ở dưới Tốn. Sự cứng mạnh lúc này không gì bằng sự nhún thuận.
Có ba cách giảng theo tượng của quẻ:
- Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn.
- Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc.
- Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị; hào này quan trọng nhất trong quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn cản được 5 hào dương , bắt phải nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc (nhỏ ngăn được lớn).
Ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng vì nó nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội Châu, chữ "ngã" (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây. Nhưng theo Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam.
Chu Hi cho rằng chữ "ngã" đó là Văn Vương tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở trong ngục Dữu Lý, mà "cõi tây của ta" tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây của Văn Vương.
Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý văn đức) chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị.
2. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc động hào tứ theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
閬苑一時春
庭前花柳新
聲傳好信息
草木盡欣欣.
Dịch âm:
Lãng uyển nhất thời xuân
Đình tiền hoa liễu tân
Thanh truyền hảo tín tức
Thảo mộc tận hân hân.
Dịch nghĩa:
Vườn rộng bát ngát ở mùa Xuân
Trước sân hoa liễu mới
Tiếng truyền tin tức tốt
Cây cỏ rất vui mừng.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Hữu phu. Huyết khứ dịch xuất. Vô cữu." (Có điềm ứng là, nơi có máu chảy thì nên tránh xa. Hào này không có tai họa.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về mưu vọng sẽ thành tựu, có tin vui, công danh tại lợi không có gì không toại ý, nhưng phải đề phòng sự tranh chấp. Người được quẻ này thời vận đã đến, từ nay về sau mọi mưu tính ắt được thuận buồm xuôi gió, vạn sự như ý.
Quẻ này chủ mưu vọng thành tựu, hân hoan vui mừng, công danh tài lợi, không có gì là không toại ý, giống in như cây cỏ được mùa khí ấm áp của mùa xuân giúp cho được nẩy cành xanh ngọn. Người xin được quẻ này cá cái tượng đãi cát.
Thảo vườn xuân và cây có sắc màu thơm tươi, đó là cảnh xuân sắc vui tươi và đó cũng là quẻ ý cho biết hiện nay thời vận của bạn đó. Vậy nghĩa là hiện nay, thời vận của bạn đã đến là hanh thông, từ nay về sau tất cả sự mưu tính ắt được gió xuôi thuận buồm, vạn sự như ý.
Thời vận hanh thông. Vạn sự như ý sở cầu. Cứ tiến hành, ắt đắc quả. Đánh số hạp.
Con số linh ứng: 2, 20, 22.