KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 201 - PHONG THIÊN TIỂU SÚC ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc trong Kinh Dịch

Phong Thiên Tiểu Súc: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu.
Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ]
Chữ súc này có nghĩa là nuôi (như mục súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa: ngăn lại, kiềm chế.

Súc có nghĩa là đậu, là hợp. Lục Tứ là chủ quẻ. Tượng hình cho một thời đại, hay một tình thế tiểu nhân lấn át quân tử, thủ đoạn tiểu xảo thắng được chính sách quang minh chính đại. Tốn thuộc Âm, thể mềm thuận, sự nhún thuận làm cho sự mềm cứng mạnh. Hào Tư là hàm âm, hào năm là hào Dương được ngôi nên đạo mềm thuận. Quẻ Tiểu Súc chứa hợp cái nhỏ, lấy cái nhỏ để chứa cái lớn.

Hình ảnh quẻ Phong Thiên Tiểu Súc

Thoán từ: Tiểu súc hanh, mật vân bất vũ, tự ngã tây giao.

Ngăn căn nhỏ (hoặc chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại, gom lại) hanh thông. Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta.

Tượng quẻ: Quẻ Tiểu Súc có quẻ Tốn trên và Càn dưới. Càn là vật ở trên nhưng trong quẻ lại ở dưới Tốn. Sự cứng mạnh lúc này không gì bằng sự nhún thuận.

Có ba cách giảng theo tượng của quẻ:
- Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn.
- Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc.
- Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị; hào này quan trọng nhất trong quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn cản được 5 hào dương , bắt phải nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc (nhỏ ngăn được lớn).
Ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng vì nó nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội Châu, chữ "ngã" (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây. Nhưng theo Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam.
Chu Hi cho rằng chữ "ngã" đó là Văn Vương tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở trong ngục Dữu Lý, mà "cõi tây của ta" tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây của Văn Vương.
Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý văn đức) chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị.

2. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

無端風雨催春去
落盡枝頭桃李花
桃畔有人歌且笑
知君心事亂如麻.

Dịch âm:

Vô đoan phong vũ thôi xuân khứ
Lạc tận chi đầu đào lí hoa
Đào bạn hữu nhân ca thả tiếu
Tri quân tâm sự loạn như ma.

Dịch nghĩa:

Không có lý do mà gió mưa đẩy mùa Xuân đi, hoa đào hoa lí rụng hết ở đầu cành, trong khóm đào có người cười vui ca hát, biết anh đang có tâm sự rối bời
Bời.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Dư thoát bức, phu thê phản mục." (Bánh xe rơi mất trục, vợ chồng cãi cọ nhau.)
Theo ý thơ của Khổng minh, quẻ này chủ về tâm sự rối như tơ vò, mọi sự đều trở nên u ám. Người được quẻ này nên ẩn nhẫn chờ thời một cách triệt để. Những mưu cầu cảu bạn khó mà được toại ý. Chờ qua một thời gian nữa thì hay hơn. Cầu danh, cầu lợi đều nên chờ đợi.
Quẻ này chủ Lưu Ly mất việc bàng hoàng chẳng có chỗ tựa nương, lang thang cầu bơ cầu bất như chó bị hỏa tai. Tâm loạn lòng rối như tơ vò. Người xin được quẻ này nên thực hiện chữ nhẫn triệt để. Ngoài ra không còn phương pháp nào khác.
Ý quẻ nói rằng, việc cầu xin của bạn khó mà được toại ý bởi quẻ đã ẩn tả cảnh của bạn như trời xuân bỗng bị mưa gió làm cả vườn hoa trái tiêu tan chẳng còn cảnh xanh tươi như trước.
Do đó, còn gì may mắn mà nói. Vậy nên bạn hãy giữ theo lối sống cũ, chớ nên vội vã và cao vọng, phải chờ qua một thời gian nữa là hay hơn.
Ẫn nhẫn chờ thời. Đang bị hãm vận, thì còn làm gì được nữa. Cầu danh lợi nên chờ đợi. Đánh số chưa tiện.

Con số linh ứng: 1, 2, 10, 20, 21.