KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 200 - PHONG THIÊN TIỂU SÚC ĐỘNG HÀO NHỊ
1. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc trong Kinh Dịch
Phong Thiên Tiểu Súc: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu.
Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ]
Chữ súc này có nghĩa là nuôi (như mục súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa: ngăn lại, kiềm chế.
Súc có nghĩa là đậu, là hợp. Lục Tứ là chủ quẻ. Tượng hình cho một thời đại, hay một tình thế tiểu nhân lấn át quân tử, thủ đoạn tiểu xảo thắng được chính sách quang minh chính đại. Tốn thuộc Âm, thể mềm thuận, sự nhún thuận làm cho sự mềm cứng mạnh. Hào Tư là hàm âm, hào năm là hào Dương được ngôi nên đạo mềm thuận. Quẻ Tiểu Súc chứa hợp cái nhỏ, lấy cái nhỏ để chứa cái lớn.
Hình ảnh quẻ Phong Thiên Tiểu Súc
Thoán từ: Tiểu súc hanh, mật vân bất vũ, tự ngã tây giao.
Ngăn căn nhỏ (hoặc chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại, gom lại) hanh thông. Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta.
Tượng quẻ: Quẻ Tiểu Súc có quẻ Tốn trên và Càn dưới. Càn là vật ở trên nhưng trong quẻ lại ở dưới Tốn. Sự cứng mạnh lúc này không gì bằng sự nhún thuận.
Có ba cách giảng theo tượng của quẻ:
- Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn.
- Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc.
- Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị; hào này quan trọng nhất trong quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn cản được 5 hào dương , bắt phải nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc (nhỏ ngăn được lớn).
Ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng vì nó nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội Châu, chữ "ngã" (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây. Nhưng theo Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam.
Chu Hi cho rằng chữ "ngã" đó là Văn Vương tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở trong ngục Dữu Lý, mà "cõi tây của ta" tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây của Văn Vương.
Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý văn đức) chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị.
2. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc động hào nhị theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
鑿石得玉
淘沙得珠
眼前目下
何用躊躇.
Dịch âm:
Tạc thạch đắc ngọc
Đào sa đắc châu
Nhãn tiền mục hạ
Hà dụng trù trừ.
Dịch nghĩa:
Đẽo đá được ngọc
Khoét cát được châu
Vận tốt đến rồi
Chần chờ gì nữa.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Khiên phục, cát." (Dẫn dắt quay trở lại, tốt lành..)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về cuộc đời đang bình thản, bỗng nhiên xáng lạn. Có tượng quay lại con đường cũ thì mới tốt lành. Người cầu được quẻ này, thời vận đã đến lúc lên hương, mọi mưu tính cứ cố gắng tiến tới, sẽ gặp may mắn.
Trong cuộc đời bình thản, bỗng nhiên rực sáng lạn. Phàm trăm việc vui mừng đều do ở chỗ bất ngờ xảy đến. Đấy quả là việc kỳ lạ. Tuy nhiên phải nhớ rằng rút cục chỉ có cái tâm quang minh chính đại mới có thể giải quyết được hoàn toàn mà thôi.
Người xin được quẻ này cần phải biết yếu lý "đầy vơi" và cái nghĩa "khiêm ích" chớ nên quên bản lai diên mục các sự vật (tức là cái tính chất thực nằm trong mọi công việc).
Người cầu được quẻ này, thật là đáng mừng. Vì quẻ nói thời vận của bạn đã đến lúc lên hương như cục đá được ngọc, đào cát gặp được châu báu, thiệt là may mắn thay.
Vậy tất cả sự mưu tính cứ cố gắng tiến tới. Phần thành công ắt nằm trong tay trong một ngày gần đây, chẳng có gì đáng lo ngại.
Tốt đẹp. Mọi sự đều gặp may mắn. Mua vé số. Đánh số rất hạp, khỏi cần tính, việc cũng đắc quả.
Con số linh ứng: 2, 20, 22.