KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 199 - PHONG THIÊN TIỂU SÚC ĐỘNG HÀO NHẤT
1. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc trong Kinh Dịch
Phong Thiên Tiểu Súc: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu.
Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ]
Chữ súc này có nghĩa là nuôi (như mục súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa: ngăn lại, kiềm chế.
Súc có nghĩa là đậu, là hợp. Lục Tứ là chủ quẻ. Tượng hình cho một thời đại, hay một tình thế tiểu nhân lấn át quân tử, thủ đoạn tiểu xảo thắng được chính sách quang minh chính đại. Tốn thuộc Âm, thể mềm thuận, sự nhún thuận làm cho sự mềm cứng mạnh. Hào Tư là hàm âm, hào năm là hào Dương được ngôi nên đạo mềm thuận. Quẻ Tiểu Súc chứa hợp cái nhỏ, lấy cái nhỏ để chứa cái lớn.
Hình ảnh quẻ Phong Thiên Tiểu Súc
Thoán từ: Tiểu súc hanh, mật vân bất vũ, tự ngã tây giao.
Ngăn căn nhỏ (hoặc chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại, gom lại) hanh thông. Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta.
Tượng quẻ: Quẻ Tiểu Súc có quẻ Tốn trên và Càn dưới. Càn là vật ở trên nhưng trong quẻ lại ở dưới Tốn. Sự cứng mạnh lúc này không gì bằng sự nhún thuận.
Có ba cách giảng theo tượng của quẻ:
- Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn.
- Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc.
- Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị; hào này quan trọng nhất trong quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn cản được 5 hào dương , bắt phải nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc (nhỏ ngăn được lớn).
Ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng vì nó nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội Châu, chữ "ngã" (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây. Nhưng theo Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam.
Chu Hi cho rằng chữ "ngã" đó là Văn Vương tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở trong ngục Dữu Lý, mà "cõi tây của ta" tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây của Văn Vương.
Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý văn đức) chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị.
2. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc động hào nhất theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
雀噪高枝上
行人古渡頭
半途不了事
日暮轉生愁.
Dịch âm:
Tước táo cao chi thượng
Hành nhân cổ độ đầu
Bán đồ bất liễu sự
Nhật mộ chuyển sanh sầu.
Dịch nghĩa:
Chim sẻ đậu cành cao
Người đi qua bến cũ
Nửa đường chẳng biết việc
Xế chiều sinh chuyện buồn.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Phục tự đạo, hà kỳ cữu, cát." (Quay lại con đường của mình thì tai vạ gì cũng sẽ tốt lành.)
Theo ý thơ của Khổng minh, quẻ này khuyên chớ nên lần lữa tháng năm, để đến lúc về già lòng lại hối tiếc. Người được quẻ này chớ nên chần chừ do dự, hãy đi theo con đường của mình, đừng đẻ lãng phí tuổi xuân. Cầu danh, cầu lợi còn xa.
Quẻ này khuyên ta sớm mưu đồ cơ nghiệp, chớ nên lần lửa tháng năm, khiến lúc về già lòng thêm hối tiếc. Người xin được quẻ này chớ nên hiểu lầm, rồi chần chừ do dự để mất tuổi xuân hoạt động.
Cả bài thơ của quẻ tả cảnh bạn cầu xin về thời vận hiện nay đều là những lời buồn bã, chẳng có câu nào may mắn. Những cầu xin của bạn chưa được tốt đẹp và hanh thông cần phải giữ mình chăm nom con cái gia đình cho chu toàn và nhẫn nại chờ thời là hơn.
Vận bỉ, chớ tính chuyện mà hỏng. Nên chờ đợi ẩn nhẫn chờ thời. Cố nhân bạn bè đều mất cả, còn biết trông cậy vào đâu. Cầu danh lợi còn xa. Đánh số chẳng lợi. Biểu tượng: Chim.
Con số linh ứng: 9, 19, 91, 99.