KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 203 - PHONG THIÊN TIỂU SÚC ĐỘNG HÀO NGŨ
1. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc trong Kinh Dịch
Phong Thiên Tiểu Súc: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu.
Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ]
Chữ súc này có nghĩa là nuôi (như mục súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa: ngăn lại, kiềm chế.
Súc có nghĩa là đậu, là hợp. Lục Tứ là chủ quẻ. Tượng hình cho một thời đại, hay một tình thế tiểu nhân lấn át quân tử, thủ đoạn tiểu xảo thắng được chính sách quang minh chính đại. Tốn thuộc Âm, thể mềm thuận, sự nhún thuận làm cho sự mềm cứng mạnh. Hào Tư là hàm âm, hào năm là hào Dương được ngôi nên đạo mềm thuận. Quẻ Tiểu Súc chứa hợp cái nhỏ, lấy cái nhỏ để chứa cái lớn.
Hình ảnh quẻ Phong Thiên Tiểu Súc
Thoán từ: Tiểu súc hanh, mật vân bất vũ, tự ngã tây giao.
Ngăn căn nhỏ (hoặc chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại, gom lại) hanh thông. Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta.
Tượng quẻ: Quẻ Tiểu Súc có quẻ Tốn trên và Càn dưới. Càn là vật ở trên nhưng trong quẻ lại ở dưới Tốn. Sự cứng mạnh lúc này không gì bằng sự nhún thuận.
Có ba cách giảng theo tượng của quẻ:
- Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn.
- Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc.
- Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị; hào này quan trọng nhất trong quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn cản được 5 hào dương , bắt phải nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc (nhỏ ngăn được lớn).
Ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng vì nó nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội Châu, chữ "ngã" (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây. Nhưng theo Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam.
Chu Hi cho rằng chữ "ngã" đó là Văn Vương tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở trong ngục Dữu Lý, mà "cõi tây của ta" tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây của Văn Vương.
Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý văn đức) chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị.
2. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
門外事重疊
陰人多遇合
賢女雖助巧
渺渺終難洽.
Dịch âm:
Môn ngoại sự trùng điệp
Âm nhân đa ngộ hợp
Hiền nữ tuy trợ xảo
Diểu diểu chung nan hiệp.
Dịch nghĩa:
Ngoài cửa việc trùng điệp
Người nữ gặp gỡ nhiều
Hiền nữ tuy khéo giúp
Xa xôi khó hiệp nhau.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Hữu phu, loan như. Phú dĩ kỳ lân." (Có điềm ứng rằng, cùng nắm tay láng giềng tiến tới. Có sự giúp đỡ của láng giềng mới giàu có được.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về tuy ở nhà có vợ hiện phụ giúp đấy, nhưng vẫn khó ổn thỏa mọi việc. Người được quẻ này nên đề phòng miệng tiếng, vì vận trình còn hơi trắc trở cho nên cố làm đến đâu cũng chưa được toại nguyện. Muốn thành công phải hợp tác với nhiều người. Cầu viêc, cầu tài còn xa.
Quẻ này chủ chính không thắng tà, quả bất địch chúng. Tuy nhà có hiền phụ đấy, nhưng vẫn khó xếp đặt cho ổn thỏa mọi việc. Đây chính là lúc im hơi lặng tiếng ẩn dật qua ngày.
Người xin được quẻ này nên đề phòng miệng tiếng, xa kẻ gian nịnh, bắt chước như Đào Tiềm đời Tần ẩn dật, xa lánh hết mọi người là hơn.
Quẻ này cho biết vận trình còn hơi trắc trở dầu cố làm cầu mưu đến đâu trong lúc này vẫn chưa được toại nguyện mà lại hao công mất giờ nữa.
Những người cầu được quẻ này tốt hơn là nên ngừng những việc đang mưu tính nhứt là việc khuếch trương kinh doanh.
Vận bất tề, nên đình đốn công việc là hơn. Cưỡng cầu tính ắt chẳng đến đâu, còn hao công, tốn của là khác. Cầu việc còn lâu. Đánh số chưa thuận.
Con số linh ứng: 2, 3, 20, 23, 30, 32.