KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 204 - PHONG THIÊN TIỂU SÚC ĐỘNG HÀO LỤC

1. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc trong Kinh Dịch

Phong Thiên Tiểu Súc: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu.
Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ]
Chữ súc này có nghĩa là nuôi (như mục súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa: ngăn lại, kiềm chế.

Súc có nghĩa là đậu, là hợp. Lục Tứ là chủ quẻ. Tượng hình cho một thời đại, hay một tình thế tiểu nhân lấn át quân tử, thủ đoạn tiểu xảo thắng được chính sách quang minh chính đại. Tốn thuộc Âm, thể mềm thuận, sự nhún thuận làm cho sự mềm cứng mạnh. Hào Tư là hàm âm, hào năm là hào Dương được ngôi nên đạo mềm thuận. Quẻ Tiểu Súc chứa hợp cái nhỏ, lấy cái nhỏ để chứa cái lớn.

Hình ảnh quẻ Phong Thiên Tiểu Súc

Thoán từ: Tiểu súc hanh, mật vân bất vũ, tự ngã tây giao.

Ngăn căn nhỏ (hoặc chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại, gom lại) hanh thông. Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta.

Tượng quẻ: Quẻ Tiểu Súc có quẻ Tốn trên và Càn dưới. Càn là vật ở trên nhưng trong quẻ lại ở dưới Tốn. Sự cứng mạnh lúc này không gì bằng sự nhún thuận.

Có ba cách giảng theo tượng của quẻ:
- Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn.
- Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc.
- Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị; hào này quan trọng nhất trong quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn cản được 5 hào dương , bắt phải nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc (nhỏ ngăn được lớn).
Ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng vì nó nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội Châu, chữ "ngã" (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây. Nhưng theo Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam.
Chu Hi cho rằng chữ "ngã" đó là Văn Vương tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở trong ngục Dữu Lý, mà "cõi tây của ta" tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây của Văn Vương.
Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý văn đức) chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị.

2. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc động hào lục theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

事有喜
面有光
終始好商量
壺中日月長.

Dịch âm:

Sự hữu hỉ
Diện hữu quang
Chung thuỷ hảo thương lượng
Hồ trung nhật nguyệt trường.

Dịch nghĩa:

Việc có mừng
Mặt có sáng
Trước sau có sự bàn bạc
Trong bình (rượu) được thảnh thơi ngày tháng.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Ký vũ ký xứ, thượng đức tái. Phụ trinh lệ. Nguyệt cơ vọng, quân tử chinh, hung" (Đã mưa xong, trời tạnh rồi, còn kịp cày cấy. Hào này tốt cho phụ nữ. Lúc trăng tròn, đàn ông xuất chinh, có hung hiểm.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về công việc trôi chảy, người cầu được quẻ này cuộc đời sắp lên hương đấy. Những mưu cầu sẽ thành đạt. Riêng đàn ông thì nên phòng họa tai bất ngờ, tránh chuyện tranh chấp, cãi vã.
Quẻ này chủ tâm kiềm tính, đến đâu là cái lợi đến đó. Khi ý vui đã tới thì đâu còn biết năm tháng dài lâu nữa. Ấu cũng là nhờ công thành viên mãn, nên mới có cái thiện quả như vậy. Người xin được quẻ này nên đo sâu đò cao để giữ bằng được chung cục tốt đẹp cho đời mình.
Người cầu được quẻ này, thực là may mắn vô cùng. Cuộc đời sắp lên hương đấy, tất cả việc cầu mưu chẳng có gì trở ngại mà là "Nhứt phàm phong thuận". Và hơn nữa, những sự cầu mưu sẽ thành đạt hơn ngoài ý định.
Câu thơ chót nói trong bầu bí chứa đựng vinh hoa. Nghĩa là sự cầu mưu sẽ được thần linh giúp đỡ, nên sự thành công ắt là huy hoàng vậy. Tốt đẹp. Thời vinh hoa, phú quý đã đến. Đánh số tốt.

Con số linh ứng: 2, 4, 20, 24, 40, 42.