KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 228 - PHONG SƠN TIỆM ĐỘNG HÀO LỤC
1. Quẻ Phong Sơn Tiệm trong Kinh Dịch
Phong Sơn Tiệm: Tiến dã. Tuần tự. Từ từ, thong thả đến, lần lần, bò tới, chậm chạp, nhai nhỏ nuốt vào. Phúc lộc đồng lâm chi tượng: phúc lộc cùng đến.
Ngừng rồi thì có lúc phải tiến lần lần, cho nên sau quẻ Cấn tới quẻ Tiệm. Tiệm là tiến lần lần.
Quẻ Tiệm giống như núi (Cấn) vững vàng tuy nhiên Tốn (gió) có phần bồng bột hấp tấp. Cơ bản quẻ này tình thế ứng với thời gian hành động bị ngừng một thời gian, sau đó có thể tiến lên từ từ. Thời kỳ quẻ Tiệm nhiều cơ hội thuận lợi, chớ nên vội vàng hấp tấp thành quả sẽ tốt hơn.
Hình ảnh quẻ Phong Sơn Tiệm
Thoán từ: Tiệm, nữ quy, cát, lợi trinh.
Tiến lần lần; Như con gái về nhà chồng, tốt; giữ vững đạo chính thì lợi.
Tượng quẻ: Ngoại quái Tốn, nội quái Cấn, có ý nghĩa là ở trên núi cao có cây đang lớn dần dần lên. Đức quẻ khiêm cung (Tốn), an tịnh (Cấn) thể hiện an tịnh tiến mà không táo cấp.
Quẻ này trên là Tốn (ở đây có nghĩa là cây), dưới là Cấn (núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt tên là Tiệm.
Cấn còn có nghĩa là ngăn, Tốn còn có nghĩa là thuận, ngăn ở dưới mà thuận ở trên, để cho tiến, nhưng không cho tiến vội, mà tiến lần lần thôi. Như trường hợp con gái về nhà chồng, việc gả con, phải thận trong, thung dung, không nên hấp tấp, có vậy mới tốt.
Xét bốn hào ở giữa quẻ, từ 2 tới 5, từ dưới tiến lên, hào nào cũng đắc chính ( hào âm ở vị âm, hào dương ở vị dương), nhất là cũng đắc chính, đắc trung ; cho nên Thoán từ khuyên giữ vững đạo chính như những hào đó thì tốt.
Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tĩnh như nội quái Cấn, vẫn hoà thuận như ngoại quái Tốn thì không vấp váp, không bị khốn cùng.
Đại Tượng truyện Khuyên người quân tử nên theo tượng quẻ này mà tu thân, tiến lần lần cho được thành người hiền, rồi thành bậc thánh, để cải thiện phong tục cho dân (Quân tử dĩ cư hiền đức, thiện tục).
2. Quẻ Phong Sơn Tiệm động hào lục theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
莫言荊棘惡
終為鸞鳳棲
目前應有待
何用早躊躇.
Dịch âm:
Mạc ngôn kinh cức ác
Chung vi loan phượng thê
Mục tiền ưng hữu đãi
Hà dụng tảo trù trừ.
Dịch nghĩa:
Chớ bảo gai chông khó
Sau cũng hợp phượng loan
Trước mắt tuy có nạn
Đừng lo sớm làm gì.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Hồng tiệm vu quỳ, kỳ vũ lhar dụng vi nghi. Cát." (Chim hồng nhạn từ từ bay về xa xôi. Lông vũ đẹp đẽ của nó có thể dùng làm trăng sức trong các điển lễ. Hào này tốt đẹp.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng đang lúc khó khăn, khuyên bạ lúc này nên an phận chờ đợi, về sau dần dần có cơ duyên tới. Người có được lúc mất, vận mạng có lúc bĩ lúc thái, hiện tịa chỉ cần chờ ít lâu thôi. Những mưu cầu của bạn ắt sẽ gặp may mắn và sẽ được toại ý.
Quẻ này khuyên ta: Lúc này nên an phận, về sau dần có cơ duyên thì chẳng cầu, việc mình mong sẽ tới. Cốt nhất chớ vì mưu tính gần đây không thành mà đâm ra buồn nản thở than. Việc người có lúc được lúc thưa, vận mạng có lúc bỉ lúc thái hiện tại bất quá chỉ chờ ít lâu đó thôi. Người xin được quẻ này nên nhìn ra mà hy vọng mà vui đi.
Thơ quẻ nói: Loại cây có gai góc bén nhọn, mà loan phụng vẫn đến đậu trú. Nghĩa là chớ đừng than thở vận thời xấu, chung quy cũng có ngày mai lành vậy. Tuy nhiên hiện nay cần phải chờ đợi, tính toán sớm làm chi.
Ý quẻ muốn nói rằng: Những việc cầu xin của bạn ắt được gặp may mắn về sau và sẽ được toại lòng cầu mong, nhưng phải chờ một thời gian ngắn nữa, chớ nên vội vàng làm càng không nên.
Chớ lo buồn, Sắp đến ngày hanh thông. Biểu tượng: Chi. Đánh số hạp.
Con số linh ứng: 2, 5, 25, 28.