KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 231 - PHONG ĐỊA QUÁN ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Phong Địa Quán trong Kinh Dịch

Phong Địa Quán: Quan dã. Quan sát. Xem xét, trông coi, cảnh tượng xem thấy, thanh tra, lướt qua, sơ qua, sơn phết, quét nhà. Vân bình tụ tán chi tượng: tượng bèo mây tan hợp.
Lâm là lớn, vật gì đến lúc lớn thì mới đáng biểu thị cho người ta thấy, cho nên sau quẻ Lâm tới quẻ Quán cũng đọc là Quan. Quán là biểu thị cho người ta thấy, Quan là xem xét

Quẻ Quán cả thượng quái và hạ quái chứa hào âm nên chứa đựng khuynh hương xung đột nhiều hơn ứng hợp. Do đó, ác ý nhiều hơn thiện ý. Bốn hào Âm ở dưới thể hiện ý nghĩa người lãnh đạo dễ vào tình trạng nhu nhược, lúc này sẽ bị người dưới phê bình, dòm ngó.

Hình ảnh quẻ Phong Địa Quán

Thoán từ: Quan, quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược

Biểu thị (làm mẫu mực cho người ta thấy) cũng như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay (quán ) cho tinh khiết, bấy nhiêu cũng đủ rồi, không cần phải bày mâm cỗ dâng lên (tiến); mình chí thành (phu) như vậy thì người khác cũng chí thành tín ngưỡng (ngung) mình.

Tượng quẻ: Ngoại quá Tốn, nội quái Khôn là gió lướt trên mặt đất. Hạ quái âm chỉ người dưới phục tùng, thượng quái nếu biết lấy chí thành có thể cảm hóa được người cấp dưới.

Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét (quan) khắp mọi loài.
Lại thêm: hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là dương biểu thị (quán) cho âm; âm trông (quan) vào dương mà theo.
Đó là giải nghĩa tên quẻ.
Thoán từ và Thoán truyện đưa một thí dụ cho ta dễ hiểu.
Muốn biểu thị (quán) là mẫu mực cho người khác thấy thì nên có lòng chí thành như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay cho tinh khiết, đó là điều quan trọng nhất, còn việc dâng cỗ, thuộc về vật chất, có nhiều cũng được, có ít cũng được, ví dụ như không có, chỉ dùng hương, hoa cũng tốt.
Hào 5 ở trong quẻ ở ngôi chí tôn, có đức dương cương, trung chính, chính là người cho thiên hạ trông vào mà cảm hóa theo.
Người đó nên coi đạo trời lẳng lặng vậy mà bốn mùa vận hành không sai, mà lấy lòng chí thành làm gương cho dân, dạy dân, dân sẽ không ai không phục.

2. Quẻ Phong Địa Quán động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

目下意難舒
有客來徐徐
金車雖歷險
吝必有終與.

Dịch âm:

Mục hạ ý nan thư
Hữu khách lai từ từ
Kim xa tuy lịch hiểm
Lận tất hữu chung dữ.

Dịch nghĩa:

Dưới mắt ý không thoải mái
Có khách đến từ từ
Xe vàng tuy trải qua nhiều nguy hiểm
Có tiếc giữ rồi thì cũng hết mà thôi.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Quan ngã sinh, tiến thối." (Xem xét hành vi phải trái của chính mình để quyết định lẽ tới lui.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng hiện tại bạn đang có nhiều điều phải lo nghĩ, chưa thư thả lắm, nhưng sẽ có người đến giúp đỡ, khi đó việc mới giải quyết được. Những mưu cầu phải chờ đợi một thời gian, tuy gặp nguy nan nhưng cũng vượt qua. Cầu tài, cầu danh đều nên chờ đợi.
Quẻ này cho biết: Hiện tượng quang cảnh tuy đẹp tốt đấy nhưng còn tương lai phải trải không biết bao nhiêu gian khổ cần cù mới thành được. Có khách tới từ từ là ý nói phải chờ tới đó. Người xin được quẻ này trước nhàn sau vất vả lắm, chứ không phải đắc ý suốt đời đâu.
Hiện cảnh tình của bạn đang lúc buồn lo và chưa thư thả lắm, đó là ý quẻ dạy. Vậy những việc cầu xin phải chờ đợi một thời gian, như ý của hai câu sau đã nói xe vàng, nghĩa là mục đích tuy gặp nguy nan nhưng cũng vượt khỏi. Kẹo rít vẫn còn người mến thương vậy.
Đang lo lắng, chờ một thời gian sau công việc mới định. Cầu tài danh, nên chờ đợi. Đánh số chưa thông.

Con số linh ứng: 1, 2, 3, 12, 13, 21, 31, 32.