KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 230 - PHONG ĐỊA QUÁN ĐỘNG HÀO NHỊ

1. Quẻ Phong Địa Quán trong Kinh Dịch

Phong Địa Quán: Quan dã. Quan sát. Xem xét, trông coi, cảnh tượng xem thấy, thanh tra, lướt qua, sơ qua, sơn phết, quét nhà. Vân bình tụ tán chi tượng: tượng bèo mây tan hợp.
Lâm là lớn, vật gì đến lúc lớn thì mới đáng biểu thị cho người ta thấy, cho nên sau quẻ Lâm tới quẻ Quán cũng đọc là Quan. Quán là biểu thị cho người ta thấy, Quan là xem xét

Quẻ Quán cả thượng quái và hạ quái chứa hào âm nên chứa đựng khuynh hương xung đột nhiều hơn ứng hợp. Do đó, ác ý nhiều hơn thiện ý. Bốn hào Âm ở dưới thể hiện ý nghĩa người lãnh đạo dễ vào tình trạng nhu nhược, lúc này sẽ bị người dưới phê bình, dòm ngó.

Hình ảnh quẻ Phong Địa Quán

Thoán từ: Quan, quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược

Biểu thị (làm mẫu mực cho người ta thấy) cũng như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay (quán ) cho tinh khiết, bấy nhiêu cũng đủ rồi, không cần phải bày mâm cỗ dâng lên (tiến); mình chí thành (phu) như vậy thì người khác cũng chí thành tín ngưỡng (ngung) mình.

Tượng quẻ: Ngoại quá Tốn, nội quái Khôn là gió lướt trên mặt đất. Hạ quái âm chỉ người dưới phục tùng, thượng quái nếu biết lấy chí thành có thể cảm hóa được người cấp dưới.

Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét (quan) khắp mọi loài.
Lại thêm: hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là dương biểu thị (quán) cho âm; âm trông (quan) vào dương mà theo.
Đó là giải nghĩa tên quẻ.
Thoán từ và Thoán truyện đưa một thí dụ cho ta dễ hiểu.
Muốn biểu thị (quán) là mẫu mực cho người khác thấy thì nên có lòng chí thành như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay cho tinh khiết, đó là điều quan trọng nhất, còn việc dâng cỗ, thuộc về vật chất, có nhiều cũng được, có ít cũng được, ví dụ như không có, chỉ dùng hương, hoa cũng tốt.
Hào 5 ở trong quẻ ở ngôi chí tôn, có đức dương cương, trung chính, chính là người cho thiên hạ trông vào mà cảm hóa theo.
Người đó nên coi đạo trời lẳng lặng vậy mà bốn mùa vận hành không sai, mà lấy lòng chí thành làm gương cho dân, dạy dân, dân sẽ không ai không phục.

2. Quẻ Phong Địa Quán động hào nhị theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

玉出昆岡石
舟離古渡灘
行藏終有望
用舍不為難.

Dịch âm:

Ngọc xuất côn cương thạch
Châu ly cổ độ than
Hành tàng chung hữu vọng
Dụng xả bất vi nan.

Dịch nghĩa:

Tìm ngọc trong khối đá
Thuyền lìa bến cũ đi
Việc làm có kết quả
Nghĩ kỹ chẳng lo gì.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Khuy quan. Lợi nữ trinh." (Nhìn trộm khe chửa. Hào này có lợi với phụ nữ.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng nếu thấy tiên được thì hãy tiến, nếu cần ngừng thì nên ngừng. Người được quẻ này cần phải thuận theo tự nhiên, chớ nên cưỡng cầu. Những mưu cầu của bạn sẽ được toại nguyện, nếu bạn biết nắm lấy vận may. Quẻ này phái nữ có lợi hơn phái lan.
Quẻ này có cái tượng: Hành tành thảy đều do trời định, dùng bỏ chẳng liên quan tới việc làm của con người. Bởi vậy nếu thấy tiến được hãy tiến, nếu cần ngừng thì nên ngừng đó chính là cái ý nghĩa của hai câu thơ đầu. Người xin được quẻ này rất cần nghe theo tự nhiên, chớ nên cưỡng cầu, nếu không ngọc đá đều cháy, thuyền bè đều chìm, tay hỏng bỏng không cả.
Theo quẻ tả cảnh cho thấy, hiện nay thời vận của bạn như ngọc lấy từ trong đá ra, thuyền cũng rời bến và từ nay ắt có bước tiến hy vọng tốt đẹp và lừng danh bốn phương đấy.
Vậy những việc cầu xin của bạn sẽ được toại nguyện chẳng có chi trở ngại, bạn hãy nắm lấy vận may. Phúc đến, vận thông tốt đẹp vô cùng. Đánh số đắc lợi.

Con số linh ứng: 2, 3, 23, 30, 32.