KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 180 - LÔI TRẠCH QUY MUỘI ĐỘNG HÀO LỤC

1. Quẻ Lôi Trạch Quy Muội trong Kinh Dịch

Lôi Trạch Quy Muội: Tai dã. Xôn xao. Tai nạn, rối ren, lôi thôi, nữ chi chung, gái lấy chồng. Ác quỷ vi sủng chi tượng: tượng ma quái làm rối.
Đã tiến lên thì phải tới, về một nơi nào đó (nơi đó là mục đích); cho nên sau quẻ Tiệm tới quẻ Qui muội. Qui là về, muội là em gái; qui muội là em gái về nhà chồng.

Quẻ Quy Muội lấy cái hòa nhã, vui vẻ để thắng cái hiếu động nhưng lại không hợp với đạo lý nên kết cục không đúng vị. Toàn quẻ âm nhu lấn áp được quang minh chính đại nên thường đem lại cảnh ngộ không thuận lợi.

Hình ảnh quẻ Lôi Trạch Quy Muội

Thoán từ: Qui muội chinh hung, vô du lợi.

Con gái nhỏ về nhà chồng, tiến lên thì xấu, không có gì lợi cả.

Tượng quẻ: Ngoại quái Chấn, nội quái Đoài có ý nghĩa vô du lợi, chính hung. Bốn hào ở giữa đều bất chính đáng lẽ tốt nhưng khía cạnh lại xấu hung.

Nội quái là Đoài (con gái nhỏ), ngoại quái là Chấn (con trai lớn); chấn lại có nghĩa là động, Đoài có nghĩa là vui vẻ, thuận theo; con gái nhỏ về với trưởng nam, cho nên gọi là qui muội.
Trai gái phối hợp nhau vốn là "cái nghĩa lớn của trời đất" vì có vợ chồng rồi mới có gia đình, xã hội. Vậy mà Thoán từ bảo là xấu, vì lẽ:
- Cặp trai gái này không xứng nhau: trai lớn quá (trưởng nam) gái nhỏ quá (muội).
- Tình của họ không chính đáng: gái chỉ vì vui (hoà duyệt, đức của nội quái Ðoài) mà tự động (Chấn) theo trai; cũng có thể giảng là vì gái cầu trai mà trai đã bị động theo gái; như vậy là bất chính. Sự bất chính đó còn thấy trên bốn hào ở giữa nữa; không một hào nào ở vị chính đáng.
- Lại thêm hào 3 và 5 đều là âm mà cưỡi lên dương: 4 và 2 có cái tượng vợ ăn hiếp chồng.
Ngay từ buổi đầu, sự phối hợp đó không được chính đáng thì biết trước được về sau không có gì lợi, chỉ tệ hại thôi (Lời Đại Tượng truyện).

2. Quẻ Lôi Trạch Quy Muội động hào lục theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

憔悴無人問
林間聽杜鵑
一聲山月笛
千里淚涓涓.

Dịch âm:

Tiều tuỵ vô nhân vấn
Lâm gian thính đỗ quyên
Nhất thanh sơn nguyệt địch

Dịch nghĩa:

thiên lý lệ quyên quyên.Tiều tụy không người hỏi
Trong rừng nghe tiếng chim quyên
Nghe tiếng sáo núi thổi
Ngàn dặm khóc triền miên.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Nữ thừa khuông, vô thực; sỹ khuê dương, vô huyết. Vô du lợi." (Con gái xách giỏ, trong giỏ không đựng gì. Con trai cắt tiết dê, dê không có máu. Hào này không cát lợi.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về lưu lạc tha hương, không người giúp đỡ. Người xin quẻ này xuất hành có tai họa, hơn nữa còn phải đề phòng bệnh hoạn. Cảnh tình hiện nay của bạn giống như bông hoa héo úa, chẳng ai màng ngắm đến. Bạn hãy an phận, và chờ đợi thời cơ mới.
Quẻ này chủ lạc phách tha hương, không người cứu giúp. Cho nên khi nghe tiếng quyên lơ lững gợi sầu, tiếng dịch rên rỉ kêu buồn thì trong lòng bi thiết thê lương. Người xin quẻ này xuất hành có tai họa, hơn nữa có bệnh hoạn phải đề phòng.
Theo ý quẻ cho biết, hiện nay cảnh tình cũng như thời vận của bạn như bông hoa ủ rũ chẳng ai màng ngắm đến, như ở nơi rừng nghe tiếng kêu sầu của chim quốc trong đêm trăng núi rừng lại nổi lên tiếng sáo, thì trước cảnh tình đó bạn thử nghĩ xem vắng tanh lạnh lẽo đến mức nào, dù là tâm gan sắt đá cũng phải sầu thảm.
Vậy việc cầu xin của bạn hãy nên an phận là hơn, nếu có mà cầu đi nữa, cũng khó thấy được một kết quả tốt đẹp.
Mọi việc bế tắc. Buồn rầu, lo âu hay hơn hết là chớ tính toán, chờ đợi thời là hay. Biểu tượng: chim đỗ quyên. Đánh số không hạp.

Con số linh ứng: 1, 8, 10, 18, 80, 81.