KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 165 - LÔI THỦY GIẢI ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Lôi Thủy Giải trong Kinh Dịch

Lôi Thủy Giải: Tán dã. Nơi nơi. Làm cho tan đi, như làm tan sự nguy hiểm, giải phóng, giải tán, loan truyền, tuyên truyền, phân phát, lưu thông, ban rải, ân xá. Lôi vũ tác giải chi tượng: tượng sấm động mưa bay.
Không thể bị nạn hoài được, thế nào cũng tới lúc giải nạn, vì vậy sau quẻ Kiển tới quẻ Giải. Giải là cởi, tan.

Quẻ Giải là hiểm sinh ra nạn nhưng nhờ động mà thoát được nạn. Khó khăn đã được giải quyết, báo hiệu cuộc sống dễ dàng hơn. Hơn nữa với những khó khăn (Khảm) mà tinh thần mạo hiểm sẽ thắng được mọi cuộc náo động (Chấn).

Hình ảnh quẻ Lôi Thủy Giải

Thoán từ: Giải lợi Tây Nam, vô sở vãng, kỳ lai phục, cát; hữu du vãng, túc cát.

Tan cởi: đi về Tây nam thì lợi, đừng đa sự, cứ khôi phục lại như cũ thì tốt. Nhưng cũng có điều đáng làm, làm cho chóng thì tốt.

Tượng quẻ: Ngoại quái Chấn, nội quái Khảm có nghĩa là giải tán những khí u uất giống như sấm trước rồi thành mưa.

Tượng quẻ là âm dương giao hoà với nhau, sấm (Chấn) động và mưa (Khảm) đổ, bao nhiêu khí u uất tan hết, cho nên gọi là Giải. Cũng có thể giảng: Hiểm (Khảm) sinh ra nạn, nhờ động (Chấn) mà thoát nạn nên gọi là Giải.
Khi mọi hoạn nạn đã tan rồi, thì dân chỉ mong an cư lạc nghiệp, người trị dân nên có chính sách khoan đại, giản dị (Tây Nam thuộc Khôn là đường lối khoan đại, bình dị); đừng đa sự, cứ khôi phục trật tự cũ cũng đủ tốt rồi. Tuy nhiên cũng phải trừ những tệ đã gây ra những hoạn nạn trước kia, cũng phải sửa đổi cho sự bình trị được lâu dài, công việc đó nên làm cho mau xong (vẫn là ý đừng đa sự) thì tốt.
Đại tượng truyện khuyên sau khi giải nạn rồi, nên tha tội cho những kẻ lầm lỗi trước, nếu không tha được thì cũng nên giảm án cho nhẹ đi (quân tử dĩ xá quá, hựu tội).

2. Quẻ Lôi Thủy Giải động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

疑疑疑
一番笑罷一番悲
落紅滿地無人掃
獨對西風悵黛眉.

Dịch âm:

Nghi nghi nghi
Nhất phiên tiếu bãi nhất phiên bi
Lạc hồng mãn địa vô nhân tảo
Độc đối tây phong trướng đại mi.

Dịch nghĩa:

Chớ hồ nghi chớ hồ nghi
Hết cười đến khóc lẽ đời suy
Lá rơi đầy đất không aiquét
Nhìn gió Tây chau mày những bất bình.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Phụ thả thừa, trí khấu chí. Trinh lận." (Người khiêng, ngựa chở tài vật quá nhiều, tự gọi là bọn cướp đến. Hào này có lo lắng.
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về có sự lo âu, buồn rầu, rời xa bạn hữu, một mình cô độc. Người được quẻ này thời vận chưa thông, nên mưu sự khó thành. Cần phải thận trọng kẻo tự chuốc lấy tai họa. Công danh tài lộc đều bất lợi.

Con số linh ứng: .