KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 181 - LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG ĐỘNG HÀO NHẤT

1. Quẻ Lôi Thiên Đại Tráng trong Kinh Dịch

Lôi Thiên Đại Tráng: Chí dã. Tự cường. Ý chí riêng, bụng nghĩ, hướng thượng, ý định, vượng sức, thịnh đại, trên cao, chót vót, lên trên, chí khí, có lập trường. Phượng tập đăng sơn chi tượng: tượng phượng đậu trên núi.
Hết thời lui rồi thì tới thời tiến lên, tiến lên thì lớn mạnh, cho nên sau quẻ Độn tới quẻ đại tráng (lớn mạnh).

Quẻ Đại Quá là sự hăng hái, thừa thắng xông lên. Quẻ này mang điềm tốt nếu thận trọng chọn đúng thời điểm và biết chuẩn bị kế hoạch hữu hiệu thì mới thu được kết quả bền vững.

Hình ảnh quẻ Lôi Thiên Đại Tráng

Thoán từ: Đại tráng lợi trinh.

Lớn mạnh, theo điều chính thì lợi.

Tượng quẻ: Ngoại quái Chấn, nội quái Càn có nghĩa là sấm động ở trên trời. Bốn hào dương đang đi lên thể hiện sự thịnh vượng. Càn ở trong, Chấn ở ngoài đức dương cương động nên tự cường bất tức, mọi việc tốt lành.

Quẻ này có 4 nét dương ở dưới, hai nét âm ở trên; dương đã lớn mạnh mà âm sắp bị diệt hết. Quẻ Càn ở trong, quẻ Chấn ở ngoài, thế là có đức dương cương mà động. Lại có thể giảng là sấm vang động ở trên trời, tiếng rất lớn, vang rất xa.
Lớn mạnh thì dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng thường tình, gặp thời thịnh, người ta kiêu căng, làm điều bất chính, cho nên thoán từ phải dặn: giữ điều chính, lúc đắc ý nghĩ đến lúc thất ý, thì mới có lợi.
Đại tượng truyện bảo muốn giữ điều chính thì đừng làm cái gì phi lễ. (Quân tử phi lễ phất lí)
Thoán truyện bàn thêm: có chính thì mới có lớn (đại), chính đại là cái "tình" của trời đất, tức cái công dụng hiện ra ngoài của trời đất, (chính đại nhi thiên địa chi tình khả kiến hĩ). Chúng ta để ý: quẻ Phục mới có một nét dương hiện ở dưới cùng, cho nên bảo chỉ thấy cái lòng của trời đất (kiến thiên địa chi tâm), quẻ Đại tráng này, dương đã lớn, được 4 nét rồi, thì thấy được cái tình của trời đất.

2. Quẻ Lôi Thiên Đại Tráng động hào nhất theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

菱荷香裏受深恩
桂魄圓時印綬新
從此威名山嶽重
光輝直上位絲綸.

Dịch âm:

Lăng hà hương lí thụ thâm ân
Quế phách viên thời ấn thụ tân
Tùng thử uy danh sơn nhạc trọng
Quang huy trực thướng vị ti luân.

Dịch nghĩa:

Thụ hưởng ân sâu mùi thơm của sen và củ ấu
Lúc bóng cây quế tròn thì ấn và dây mũ đổi mới
Từ đó uy danh của núi non được xem nặng
Ánh sáng thẳng lên vị trí của mối giềng sợi tơ. (ý nói từ khi ra làm quan
Gặp được minh chúa
Trở thành tôi hiền
Làm rạng rỡ uy danh của nhà vua)

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tráng vu chỉ. Chinh, hung. Hữu phu." (Ngón chân bị thương. Xuất chinh có hung hiểm. Điềm ứng là như vậy.)
Theo ý thơ của khổng Minh, quẻ này có tượng sự xui rủi đã qua, điềm may mắn sắp đến, nhưng bất lợi về đi xa. Người được quẻ này ý chí lại lừng chừng, thiếu quyết đoán, nên làm cho việc khó thành. Bạn phải nắm lấy cơ hội và bền chí tiến tới, chớ có do dự thì mới được. Một tháng nữa sẽ có quý nhân phù trợ. Cầu tài, cầu danh đều có hy vọng.
Lẽ ra hoa tàn phùng xuân là một việc may mắn cho bông hoa, nghĩa là người cầu xin quẻ được gặp may mắn, nhưng lại vì ý chí lưng chừng nên làm cho sự cầu mưu không thành.
Bởi đó phải chờ lại một dịp khác thì sự cầu mưu mới nên. Đó là ý quẻ mách cho hay. Vậy việc cầu lo của bạn phải nắm lấy cơ hộivà bền chí tiến tới, đừng do dự, đắn đo thì mới được.
Sự thành, nhưng vì chần chờ, bất quyết, mà hóa ra hỏng, phải chờ dịp khác. Một tháng nữa việc mới nên. Phải cố gắng, nhất quyết mới được. Cầu tài, cầu danh có hy vọng. Đánh số được lợi nhỏ.

Con số linh ứng: 1, 2, 8, 12, 18, 21, 81, 82.