KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 185 - LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Lôi Thiên Đại Tráng trong Kinh Dịch

Lôi Thiên Đại Tráng: Chí dã. Tự cường. Ý chí riêng, bụng nghĩ, hướng thượng, ý định, vượng sức, thịnh đại, trên cao, chót vót, lên trên, chí khí, có lập trường. Phượng tập đăng sơn chi tượng: tượng phượng đậu trên núi.
Hết thời lui rồi thì tới thời tiến lên, tiến lên thì lớn mạnh, cho nên sau quẻ Độn tới quẻ đại tráng (lớn mạnh).

Quẻ Đại Quá là sự hăng hái, thừa thắng xông lên. Quẻ này mang điềm tốt nếu thận trọng chọn đúng thời điểm và biết chuẩn bị kế hoạch hữu hiệu thì mới thu được kết quả bền vững.

Hình ảnh quẻ Lôi Thiên Đại Tráng

Thoán từ: Đại tráng lợi trinh.

Lớn mạnh, theo điều chính thì lợi.

Tượng quẻ: Ngoại quái Chấn, nội quái Càn có nghĩa là sấm động ở trên trời. Bốn hào dương đang đi lên thể hiện sự thịnh vượng. Càn ở trong, Chấn ở ngoài đức dương cương động nên tự cường bất tức, mọi việc tốt lành.

Quẻ này có 4 nét dương ở dưới, hai nét âm ở trên; dương đã lớn mạnh mà âm sắp bị diệt hết. Quẻ Càn ở trong, quẻ Chấn ở ngoài, thế là có đức dương cương mà động. Lại có thể giảng là sấm vang động ở trên trời, tiếng rất lớn, vang rất xa.
Lớn mạnh thì dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng thường tình, gặp thời thịnh, người ta kiêu căng, làm điều bất chính, cho nên thoán từ phải dặn: giữ điều chính, lúc đắc ý nghĩ đến lúc thất ý, thì mới có lợi.
Đại tượng truyện bảo muốn giữ điều chính thì đừng làm cái gì phi lễ. (Quân tử phi lễ phất lí)
Thoán truyện bàn thêm: có chính thì mới có lớn (đại), chính đại là cái "tình" của trời đất, tức cái công dụng hiện ra ngoài của trời đất, (chính đại nhi thiên địa chi tình khả kiến hĩ). Chúng ta để ý: quẻ Phục mới có một nét dương hiện ở dưới cùng, cho nên bảo chỉ thấy cái lòng của trời đất (kiến thiên địa chi tâm), quẻ Đại tráng này, dương đã lớn, được 4 nét rồi, thì thấy được cái tình của trời đất.

2. Quẻ Lôi Thiên Đại Tráng động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

夢裏說關山
波深下釣難
利名終有望
目下未開顏 .

Dịch âm:

Mộng lý thuyết quan san
Ba thâm hạ điếu nan
Lợi danh chung hữu vọng
Mục hạ vị khai nhan.

Dịch nghĩa:

Mộng mơ bàn việc nước non
Ngư ông còn ngại sóng dồn buông câu
Lợi danh như được sở cầu
Ngày sau mở mặt công hầu đồn vang.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Táng dương vu Dịch. Vô hối." (Tổ tiên người Ân là Vương Cai làm mất bầy dê ở đất Dịch nhân. Hào này không có khó khăn.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, người được quẻ này có mộng ước cao xa, tình cảnh hiện tại thic chưa khả quan cho lắm, còn cần phải cố tiến lên mới được. Danh lợi rốt cuốc cũng có hy vọng nhưng bạn cần phải nhẫn nại, chớ nóng lòng, dần dần rồi cũng sẽ được toại nguyện. Cầu danh, cầu lợi đều chậm.
Quẻ này chủ nghĩ vơ nghĩ vẫn, như người ngây nói mộng. Việc chưa có trải qua, chưa thấy khó. Tuy nhiên không phải vì khó mà chịu chết già trong cửa sổ. Thực ra công việc thuận lợi và được toại lòng chỉ vào hồi vãn niên mà thôi. Người xin được quẻ này thiết tưởng không nên ngã lòng phải cố tiến mới được.
Theo ý quẻ thì tương lai hứa hẹn đầy tốt đẹp như câu thứ ba trong thơ nói: "Danh lợi rút cuộc có hy vọng" nhưng bạn phải đợi chờ một thời gian nữa thì mới gặp may.
Vậy những việc cầu xin của bạn cần phải nhẫn nại chịu đựng, chớ nóng lòng thì sẽ dần dần được toại nguyện. Xưa có câu: "Hữu phúc tự nhiên lai" đó.
Nên chờ đợi, thời gian sắp đến rồi. Cần ẩn nhẫn chờ thời, chớ bôn ba. Cầu danh cầu lợi còn chậm. Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 1, 5, 8, 15, 18, 51, 58, 85.