KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 159 - LÔI SƠN TIỂU QUÁ ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá trong Kinh Dịch

Lôi Sơn Tiểu Quá: Quá dã. Bất túc. Thiểu lý, thiểu não, hèn mọn, nhỏ nhặt, bẩn thỉu, thiếu cường lực. Thượng hạ truân chuyên chi tượng: trên dưới gian nan, vất vả, buồn thảm.
Tin (Trung phu) mà làm ngay, không xét đều tin đó phải hay không , thì có thể mắc lầm lỗi, cho nên sau quẻ Trung phu tới quẻ Tiểu quá. Quá có hai nghĩa: lỗi; ra ngoài cái mức vừa phải thoán từ dưới đây dùng nghĩa sau.

Quẻ Tiểu Quá ứng với thời kỳ có thể quá đi một chút thì lại được hanh. Tốt nhất giữ đạo trung dung sao cho được bền bỉ. Cương nhu nên dung hòa từng tình thế. Nên làm việc nhỏ, không nên làm việc lớn. Nếu làm việc nhỏ mọi việc an ổn, hạn chế lỗi lầm.

Hình ảnh quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

Thoán từ: Tiểu quá hanh, lợi trinh.

Cái nhỏ nhiều: Hanh thông hợp đạo chính thì lợi. Có thể làm việc nhỏ, không thể làm việc lớn. Con chim bay mà để tiếng kêu lại, không nên lên cao mà nên xuống thấp. Người quân tử biết được như vậy thì tốt.

Tượng quẻ: Ngoại quái Chấn, nội quái Cấn có nghĩa là sấm bị nghẹt ở trong vùng của núi không thể lan rộng ra được.

Quẻ này trái với quẻ Đại quá số 28. đại quá có 4 hào dương ở giữa, 2 hào âm ở dưới cùng và trên cùng, như vậy dương nhiều hơn âm, mà dương có nghĩa là lớn, âm là nhỏ, cho nên Đại quá có nghĩa là cái lớn (dương) nhiều hơn. Tiểu quá có 2 hào dương ở giữa, 4 hào âm ở trên và dưới, như vậy là âm – tức cái nhỏ - nhiều hơn dương tức cái lớn; cho nên đặt tên là Tiểu quá. Tiểu quá là cái nhỏ nhiều hơn; nhưng cũng có nghĩa là quá chút ít.
Bình thường thì vừa phải là hay. Nhưng cũng có khi quá một chút lại hay, chẳng hạn trong nhà, chồng tiêu pha nhiều quá, vợ chắt bóp một chút để được trung bình; hoặc khi thiên về bên tả quá, muốn lấy lại mức trung thì lại nên thiên về bên hữu một chút. Nhưng việc gì cũng phải hợp lẽ, hợp thời, hợp đạo chính thì mới được. Đó là ý nghĩa câu đầu.
Câu thứ hai" "Chỉ nên "quá" trong việc nhỏ, không nên "quá trong việc lớn; vì việc nhỏ, lỡ có quá một chút, hậu quả không tai hại, còn việc lớn mà lỡ quá một chút, một li có thể đi một dặm hậu quả rât nặng nề, như việc nước, lỗi lầm một chút có thể gây chiến tranh hoặc sự suy sụp về kinh tế. . . .
Thoán truyện giảng: Các hào dương (lớn) đều không đắc trung, là quân tử nhất thời, không làm việc lớn được.
Câu thứ ba tối nghĩa, không hiểu sao lại dùng tượng con chim bay ở đây. Mỗi nhà giải thích một khác: Chu Hi bảo "trong thực, ngoài hư như con chim bay", có lẽ vì cho hai hào âm ở dưới như hai chân chim, hai hào âm ở trên như hai cánh chim xòe ra? Còn về ý nghĩa thì có người giảng: người quân tử ở thời Tiểu quá nên khiêm tốn, không nên có tiếng tăm lớn, chỉ nên như tiếng chim kêu khi bay, thoáng qua mà thôi; mà cũng không nên ở ngôi cao, như con chim không nên bay lên cao. Hai chữ "đại cát", các sách đều dịch là rất tốt; Phan Bội Châu dịch là tốt cho người quân tử, nếu đừng có tiếng tăm, đừng ở ngôi cao "Đại" đó trỏ người quân tử.
Đại Tượng truyện giản: Chấn ở trên Cấn là tiếng sấm ở trên núi, bị nghẹt vì núi mà thu hẹp lại, nên gọi là Tiểu quá. Người quân tử ở thời này chỉ nên làm quá trong việc nhỏ, như có thể quá cung kính, quá thương cảm trong việc ma chay, quá tiết kiệm.

2. Quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

狂風吹起墨雲飛
月在天心遮不得
閒時無事暫相關
到底依然無克剝.

Dịch âm:

Cuồng phong xuy khởi mặc vân phi
Nguyệt tại thiên tâm già bất đắc
Nhàn thời vô sự tạm tương quan
Đáo để y nhiên vô khắc lục.

Dịch nghĩa:

Gió cuồng thổi dạt đám mây mù
Trăng giữa trời cao há khỏi lu
Lúc nhàn suy nghĩ tìm phương giúp
Sau rồi thông chẳng khắc thù.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Phất quá, phòng chi. Tòng hoặc tường chi. Hung." (Không nên trách móc, mà cần đề phòng nhiều hơn. Nếu cứ phóng túng theo ý mình thì sẽ gặp tai hại. Hào này hung hiểm.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về bị người ta hại, nhưng rốt cuộc chẳng ra sao. Vận trình của bạn hiện nay giống như trăng sáng giữa trời chẳng sợ mây đen bao phủ, cho nên chẳng ngại việc không may xảy đến với mình. Những mưu cầu của bạn rốt cuộc cũng sẽ thành công, toại ý, tuy có gặp chút trở ngại. Mọi việc rồi sẽ hanh thông.
Quẻ này cho biết: Bị người ta hại, nhưng rốt cuộc chẳng việc gì. Sở dĩ có trường hợp đặc biệt này là do ở chỗ ta hiểu biết sâu rộng mà ra. Có đôi chút tai hại thì cũng chẳng đủ để lo ngại trong tâm. Xưa nay, nhưng kẻ đạo cao đức trọng, dù có bị dèm chê, mưu hại tới đâu cũng chẳng phải là điều đáng sợ hãi lắm.
Theo ý quẻ: Hiện nay vận trình của bạn như trăng sao giữa trời chẳng sợ mây đen phủ mất nghĩa là số vận hiện nay của bạn đang đắc thời. Chẳng ngại việc không may xảy đến cho mình. Căn cứ lời quẻ nói trên. Những việc cầu xin của người rút cuộc sẽ thành công, toại nguyện, tuy có gặp chút trở ngại cũng chẳng đáng kể.
Đang vận hên. Chẳng lo gì cả. Tuy nhiên cũng có vài cản trở, nhưng được lướt qua. Thời vận còn thái, chẳng lo. Sự sự hanh thông. Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 1, 5, 9, 15, 19, 51, 59, 95.