KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 152 - LÔI ĐỊA DỰ ĐỘNG HÀO NHỊ

1. Quẻ Lôi Địa Dự trong Kinh Dịch

Lôi Địa Dự: Duyệt dã. Thuận động. Dự bị, dự phòng, canh chừng, sớm, vui vầy. Thượng hạ duyệt dịch chi tượng: tượng trên dưới vui vẻ.
Đã Đại hữu mà lại Khiêm thì tất nhiên là vui vẻ, sung sướng, cho nên sau quẻ Khiêm, tới quẻ Dự (vui, sướng).

Hào Tứ làm chủ quẻ, là người có tài, lại đứng ở vị trí chí tôn nên thu được lòng tin của nhiều người cả người trên cũng như người dưới. Tuy nhiên có điều cần lưu ý hạ quái Âm đang bốc lên nên đề phòng có thể lúc nào đó sẽ lấn áp quái Dương của quẻ.
Quẻ Dự là một nhân thần tài cao, quyền trọng và lấy được lòng tin của cấp trên và có tài thuyết phục người dưới nhưng đôi khi lại không thể thống nhất được mọi người, đứng ở vị trí lãnh đạo hoàn toàn.

Hình ảnh quẻ Lôi Địa Dự

Thoán từ: Dự, là lợi kiến hầu, là hành sư

Vui vẻ: Dựng tước hầu (để trị dân), ra quân thì tốt.

Tượng quẻ: Ngoại quái Chấn, nội quái Khôn. Chấn mang tính động, còn Khôn mang tính thuận, khi kết hợp thành quẻ mang ý nghĩa hành động vui vẻ, hòa thuận. Cũng có thể hiểu khí dương đang phát động thúc đẩy muôn vật sinh sôi nảy nở.

Có ba cách giảng ý nghĩa quẻ này.
- Chấn ở trên, Khôn ở dưới, có nghĩa là ở trên thì động, hành động; ở dưới thuận theo, như vậy tất vui vẻ.
- Sấm ở trên đất, nghĩa là khí dương phát động (chấn thuộc dương) mà muôn vật ở trên phát sinh, cũng là cảnh tượng vui vẻ.
- Quẻ này chỉ có một hào dương (hào 4), 5 hào âm đều theo nó, nó làm chủ trong quẻ , như một người tài đức, làm việc gì cũng thuận cả, tất thành công, sẽ vui vẻ, an ổn.
- Thuận với lẽ tự nhiên thì dù trời đất cũng nghe theo, huống hồ là việc dựng tước hầu, ra quân, dân há lại không theo.
- Thoán truyện bàn rộng thêm: Cái đạo thuận lẽ mà hành động đó là đạo trời, cho nên mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng ban ngày ban đêm, không bao giờ lầm; bốn mùa thay nhau chẳng bao giờ sai. Thánh nhân thuận lẽ mà hành động thì hình phạt không phiền phức mà dân chúng phục tòng.

2. Quẻ Lôi Địa Dự động hào nhị theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

莫歎事遲留
休言不到頭
長竿終入手
一釣上金鉤.

Dịch âm:

Mạc thán sự trì lưu
Hưu ngôn bất đáo đầu
Trường can chung nhập thủ
Nhất điếu thượng kim câu.

Dịch nghĩa:

Chớ than sao việc chậm
Đừng nói không tới nơi
Trong tay gậy dài nắm
Một cần buông câu được cá.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Giới vu thạch, bất chung nhật. Trinh cát." (Bị khốn nhục ở tảng đá, nhưng thời gian không đến một ngày. Hào này tốt đẹp.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về có điều nguy khốn, trước mắt xem ra vô cùng gian nan. Nhưng thời gian ngắn thôi, rốt cuộc sẽ không còn chướng ngai. Người được quẻ này nên vững tâm chờ đợi.
Than thở chẳng có lợi ích gì, mà phải cố gắng cầu tiến. Mọi mưu cầu còn chậm, nên ẩn nhẫn.
Quẻ này báo trước: việc có điều nguy hiểm, trước mặt xem ra vô cùng gian nan.
Song lễ mừng được sóng qua gió lặng, rốt cuộc không còn chướng ngại.
Rồi một buổi đẹp trời, ta có chỗ tựa nương, sẽ có thể bắt được con cá vàng.
Đây chỉ là cái tượng của trường hợp khai hoa thì sớm nhưng kết quả thì chậm đó thôi.
Người xin được quẻ này nên vững tâm chờ đợi.
Than thở chẳng có lợi gì và không thể giải quyết được chi mà phải cố gắng cầu tiến như muốn bắt cá ở sâu vực thẳm, phải có cần câu, đó là ý quẻ mách cho bạn hay đấy.
Vậy muốn thành đạt những việc cầu xin, hãy cố gắng tạo nên một hoàn cảnh thuận tiện cho bước tiến dễ dàng, rồi ắt vạn sự như ý.
Muốn thành công phải có phương tiện và người giúp. Cố gắng mới thành. Cầu mọi sự còn chậm. Ẫn nhẫn. Đánh số hạp chút ít.

Con số linh ứng: 1, 2, 5, 25, 45, 51, 52.