KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 124 - HỎA TRẠCH KHUÊ ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Hỏa Trạch Khuê trong Kinh Dịch

Hỏa Trạch Khuê: Quai dã. Hỗ trợ. Trái lìa, lìa xa, hai bên lợi dụng lẫn nhau, cơ biến quai xảo, như cung tên. Hồ giả hổ oai chi tượng: con hồ (cáo) nhờ oai con hổ.
Gia đạo đến lúc cùng thì có người trong nhà chia lìa, chống đối nhau, cho nên sau quẻ Gia nhân tới quẻ Khuê. Khuê nghĩa là chống đối, chia lìa.

Quẻ Khuê là quẻ báo hiệu điềm xấu, sẽ sớm có hiểm họa hoặc chống đối. Phải lấy nhu trừ cương, đối với tình thế nhiều bạo tàn, hiểm nguy cần biết phòng thủ, khoan hòa, thậm chí nhẫn nhục may ra được vô cựu.

Hình ảnh quẻ Hỏa Trạch Khuê

Thoán từ: Khuê. Tiểu sự cát.

Chống đối: việc nhỏ thì tốt.

Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Đoài là lửa bốc lên trên, còn nước thì thấm xuống dưới nên chiều hướng trái ngược nhau. Trong quẻ có đức minh (Ly), đức duyệt (Đoài) nếu biết nương tựa vào nhau thì tốt làm việc nhỏ.

Đoài (chằm) ở dưới Ly (lửa). chằm có tính thấm xuống, lửa có tính bốc lên, trên dưới không thông với nhau mà càng ngày càng cách xa nhau.
Quẻ này xấu nhất trong Kinh dịch, ngược hẳn lại với quẻ Cách. Chỉ làm những việc nhỏ cá nhân thì hoạ may được tốt.
Thoán truyện giảng thêm: Đoài là thiếu nữ, Ly là trung nữ, hai chị em ở một nhà mà xu hướng trái nhau (em hướng về cha mẹ, chị hướng về chồng), chí hướng khác nhau, cho nên gọi là khuê.
Tuy nhiên Ðoài có đức vui, Ly có đức sáng, thế là hòa vui mà nương tựa vào đức sáng. Lại thêm hào 5, âm nhu mà tiến lên ở ngôi cao, đắc trung mà thuận ứng với hào 2, dương dương ở dưới, cho nên bảo việc nhỏ thì tốt.
Xét trong vũ trụ, trời đất, một ở trên cao, một ở dưới thấp, vốn là khác nhau, chia lìa nhau, vậy mà công hoá dục vạn vật là của chung trời đất. Trai gái, một dương, một âm, vẫn là trái nhau, vậy mà cảm thông với nhau. Vạn vật tuy khác nhau mà việc sinh hào cùng theo một luật như nhau. Thế là trong chỗ trái nhau vẫn có chỗ giống nhau, tìm ra được chỗ "đồng" đó trong cái "dị", là biết được cái diệu dụng (công dụng kỳ diệu) của quẻ Khuê, của thời Khuê.
Thoán truyện khuyên ta như vậy. Đại tượng truyện ngược lại khuyên ta ở trong chỗ "đồng" có khi nên "dị". Ví dụ người quân tử bình thường hành động cũng hợp thiên lý, thuận nhân tình như mọi người (đó là đồng); nhưng gặp thời loạn, đại chúng làm những việc trái với thiên lý thì không ùa theo họ, mà tách riêng ra, cứ giữ thiên lý, dù bị chê bai, bị gian khổ cũng chịu (đó là dị). Vậy không nhất định là phải đồng mới tốt, dị (chia lìa) cũng có lúc tốt.

2. Quẻ Hỏa Trạch Khuê động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

寶鏡新
照兩人
心中結
合同心.

Dịch âm:

Bảo kính tân
Chiếu lưỡng nhân
Tâm trung kết
Hợp đồng tâm.

Dịch nghĩa:

Gương báu mới
Soi hai người
Lòng đã hợp
Cùng quyết tâm.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói (Khuê cô, ngộ duyên nguyên phu, giao phu. Lệ, vô cữu (Người cô độc ra đi, gặp được một vị đại phu, cùng tín nhiệm lẫn nhau, kết bạn quay về. Hào này tuy hung hiểm, nhưng không có tai họa.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng hào hợp, tin tưởng lẫn nhau. Người được quẻ này tuy ở hoàn cảnh không mấy thuận lợi, nhưng sẽ có quý nhân phù trợ. Mọi việc sẽ hanh thông. Cầu tài, cầu danh đều thành đạt.
Quẻ này chỉ cái tượng: hồi tâm hướng thiện, thanh thản vô tư. Hoa nở đó là thủy, kết quả đó là chung. Lúc đầu thì chưa thiện, nhưng về sau lại thiện, bởi thế, không có gì đáng lo ngại. Người xin được quẻ này xin chớ lấy đó mà gọi là đủ.
Ý quẻ nói, sự sống cuộc đời con người làm sao tránh được thất bại buồn đau cũng như ai mà không có sự sai lầm nhưng người ta biết sai mà sửa đổi thì vẫn được tốt lành. Tức là hảy rút kinh nghiệm thất bại rồi cải tiến thì sẽ trở nên thành công. Và hơn nửa quẻ khuyên rằng, đối với công việc sở cầu đừng lấy thành bại mà làm vui buồn, cứ cố tiến tới đến cùng, đến lúc đó mới biết rõ ràng tốt xấu và đó là kết quả chính xác vậy.
Sai biết sửa thì tốt. Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 3, 4, 8, 38, 43, 48, 83, 84.