KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 122 - HỎA TRẠCH KHUÊ ĐỘNG HÀO NHỊ
1. Quẻ Hỏa Trạch Khuê trong Kinh Dịch
Hỏa Trạch Khuê: Quai dã. Hỗ trợ. Trái lìa, lìa xa, hai bên lợi dụng lẫn nhau, cơ biến quai xảo, như cung tên. Hồ giả hổ oai chi tượng: con hồ (cáo) nhờ oai con hổ.
Gia đạo đến lúc cùng thì có người trong nhà chia lìa, chống đối nhau, cho nên sau quẻ Gia nhân tới quẻ Khuê. Khuê nghĩa là chống đối, chia lìa.
Quẻ Khuê là quẻ báo hiệu điềm xấu, sẽ sớm có hiểm họa hoặc chống đối. Phải lấy nhu trừ cương, đối với tình thế nhiều bạo tàn, hiểm nguy cần biết phòng thủ, khoan hòa, thậm chí nhẫn nhục may ra được vô cựu.
Hình ảnh quẻ Hỏa Trạch Khuê
Thoán từ: Khuê. Tiểu sự cát.
Chống đối: việc nhỏ thì tốt.
Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Đoài là lửa bốc lên trên, còn nước thì thấm xuống dưới nên chiều hướng trái ngược nhau. Trong quẻ có đức minh (Ly), đức duyệt (Đoài) nếu biết nương tựa vào nhau thì tốt làm việc nhỏ.
Đoài (chằm) ở dưới Ly (lửa). chằm có tính thấm xuống, lửa có tính bốc lên, trên dưới không thông với nhau mà càng ngày càng cách xa nhau.
Quẻ này xấu nhất trong Kinh dịch, ngược hẳn lại với quẻ Cách. Chỉ làm những việc nhỏ cá nhân thì hoạ may được tốt.
Thoán truyện giảng thêm: Đoài là thiếu nữ, Ly là trung nữ, hai chị em ở một nhà mà xu hướng trái nhau (em hướng về cha mẹ, chị hướng về chồng), chí hướng khác nhau, cho nên gọi là khuê.
Tuy nhiên Ðoài có đức vui, Ly có đức sáng, thế là hòa vui mà nương tựa vào đức sáng. Lại thêm hào 5, âm nhu mà tiến lên ở ngôi cao, đắc trung mà thuận ứng với hào 2, dương dương ở dưới, cho nên bảo việc nhỏ thì tốt.
Xét trong vũ trụ, trời đất, một ở trên cao, một ở dưới thấp, vốn là khác nhau, chia lìa nhau, vậy mà công hoá dục vạn vật là của chung trời đất. Trai gái, một dương, một âm, vẫn là trái nhau, vậy mà cảm thông với nhau. Vạn vật tuy khác nhau mà việc sinh hào cùng theo một luật như nhau. Thế là trong chỗ trái nhau vẫn có chỗ giống nhau, tìm ra được chỗ "đồng" đó trong cái "dị", là biết được cái diệu dụng (công dụng kỳ diệu) của quẻ Khuê, của thời Khuê.
Thoán truyện khuyên ta như vậy. Đại tượng truyện ngược lại khuyên ta ở trong chỗ "đồng" có khi nên "dị". Ví dụ người quân tử bình thường hành động cũng hợp thiên lý, thuận nhân tình như mọi người (đó là đồng); nhưng gặp thời loạn, đại chúng làm những việc trái với thiên lý thì không ùa theo họ, mà tách riêng ra, cứ giữ thiên lý, dù bị chê bai, bị gian khổ cũng chịu (đó là dị). Vậy không nhất định là phải đồng mới tốt, dị (chia lìa) cũng có lúc tốt.
2. Quẻ Hỏa Trạch Khuê động hào nhị theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
止止止
有終有始
似月如花
守成而已.
Dịch âm:
Chỉ chỉ chỉ
Hữu chung hữu thuỷ
Tự nguyệt như hoa
Thủ thành nhi dĩ.
Dịch nghĩa:
Dừng dừng dừng
Có đuôi có đầu
Tợ trăng như hoa
Bằng lòng hiện có.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Ngộ chủ vô hạng. Vô cữu." (Gặp chủ nhân ở ngõ hẻm. Hào này không có tai họa.)
Theo ý thơ của Khổng minh, quẻ này có tượng nên biết đủ mà dừng. Người được quẻ này, cảnh tình hiện nay đã tốt đẹp, nhưng bây giờ chỉ cần giữ gìn là được rồi. Đừng quá tham vọng, mà nên tùy tài của mình mà tính thì hay hơn. Cầu tài, cầu danh đều được vừa phải.
Quẻ này khuyên ta nên biết tri túc nghĩa là biết đủ. Duy chỉ có tri túc mới có thể bảo vệ được thủy chung. Và cũng chỉ duy có tri túc mói có thể giữ được thành cục. Trăng có lúc khuyết lúc tròn. Hoa có lúc nở lúc tàn, đó là cái đạo tuần hoàn đi đi rồi lại lại. Người xin được quẻ này cũng y như vậy.
Ý quẻ cho biết những việc cầu xin của bạn, mỗi người có một số phận riêng biệt khác nhau, nghĩa là số phận của mình trời đã định sẵn rồi. Chớ phải do người muốn hay không muốn, đó là thuộc phần mầu nhiệm huyền cơ, khó mà giải nghĩa bằng khoa học.
Nên quẻ khuyên rằng: Cảnh tình của bạn hiện nay đã đẹp như trăng như bông, chỉ cần giữ gìn.
Quẻ dạy: Đừng tham vọng. Tùy sức tùy tài mà tính, thì hay hơn. Thời vận đến rồi đó, cứ tiến tới làm ăn, là tốt. Tham vọng quá thành thất vọng đó. Cầu tài, cầu danh được vừa phải. Đánh số hạp.
Con số linh ứng: 1, 2, 10, 11, 12, 20, 21, 22.