KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 142 - HỎA THỦY VỊ TẾ ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế trong Kinh Dịch

Hỏa Thủy Vị Tế: Thất dã. Thất cách. Thất bát, mất, thất bại, dở dang, chưa xong, nửa chừng. Ưu trung vọng hỷ chi tượng: tượng trong cái lo có cái mừng.
Bình luận: Kinh Dịch kết thúc bằng quẻ Vị Tế (chưa xong việc) mà trước đó lại là quẻ Ký Tế (đã xong việc). Ý nghĩa của nó là mọi sự việc tưởng chừng như đã kết thúc nhưng thực ra thì không bao giờ kết thúc. Suy rộng ra thì vạn vật trong vũ trụ cũng vậy. Sự chuyển động, thay đổi nói chung là không có đầu mà cũng chẳng có cuối.
Kí tế là qua sông rồi, cũng rồi, nhưng theo luật thiên nhiên, không có lẽ nào hết hẳn được, hết mùa này đến mùa khác, hết thời này đến thời khác, hết lớp này đến lớp khác, sinh sinh hoá hoá hoài, cứ biến dịch vô cùng, cho nên tuy xong rồi nhưng vẫn là chưa hết, chưa cùng, do đó sau quẻ Kí tế tới quẻ Vị tế: chưa qua sông, chưa xong, chưa hết.

Nếu Ký Tế sáu hào đắc chính thì sáu hào của quẻ Vị Tế đều bất chính. Âm hào cư dương vị, nhiều hung hiểm khó có kết cục sáng sủa như mong đợi. Để tránh sa vào hiểm tốt nhất nên biết cách giữ mình.

Hình ảnh quẻ Hỏa Thủy Vị Tế

Thoán từ: Vị Tế hanh, tiểu hồ ngật tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi.

Chưa xong, chưa cùng: được hanh thông. Con chồn nhỏ sửa soạn vượt qua sông mà đã ướt cái đuôi, không qua được, không có gì lợi cả.

Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Khảm có ý nghĩa là lửa đặt ở trên của nước nên không thể giao hòa mọi việc khó mà thành công.

Quẻ này trái hẳn quẻ trên: lửa ở trên nước, nước và lửa không giao nhau, không giúp được nhau; cả 5 hào đều ở trái ngôi cả; dương ở vị âm, mà âm ở vị dương, cho nên gọi là vị tế: chưa xong.
Vị tế chứ không phải là bất tế, chưa qua sông được chứ không phải là không qua được, sẽ có thời qua được, lúc đó sẽ hanh thông. Thời đó là thời của hào 5, có đức nhu trung, biết thận trọng mà ở giữa quẻ Ly (thời văn minh). Vả lại tuy 5 hào đều trái ngôi, nhưng ứng viện nhau cương nhu giúp nhau mà nên việc: thêm một lẽ hanh thông nữa.
Thoán từ khuyên đừng nên như con chồn con, nóng nảy hấp tấp, mới sửa soạn qua sông mà đã làm ướt cái đuôi, không qua được nữa, không làm được việc gì lợi cả, không tiếp tục được đến cùng.
Đại tượng khuyên phải xem xét kỹ càng mà đặt người, vật vào chỗ thích đáng, thì mới nên việc, đừng đặt lửa ở trên nước chẳng hạn như quẻ này.

2. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

利在中邦出戰時
一番獲饋在王庭
鳳銜丹詔歸陽畔
得享佳名四海榮.

Dịch âm:

Lợi tại trung bang xuất chiến thời
Nhất phiên hoạch quỹ tại vương đình
Phượng hàm đan chiếu qui dương bạn
Đắc hưởng giai danh tứ hải vinh.

Dịch nghĩa:

Lợi ở nước đứng giữa khi có chiến tranh
Một phen đem đồ vật biếu xén chốn cung vua
Chim phượng ở Hàm Đan truyền chiếu chỉ đến đất Dương Quy
Hưởng được tiếng tốt khắp bốn biển.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Trinh cát. Hối vong. Chận dụng phạt Quỷ phương, tam niên, hữu thưởng vu đại quốc." (Hào này cát lợi. Khó khăn đa qua. Phấn chấn đi chinh phạt nước Quỷ kéo dài ba năm, được ban thưởng lớn.
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về có công mà lại bị oán. Tuy vậy, nhờ tài năng mà về sau được tiếng thơm. Sở dĩ được như thế cũng là nhờ ở bạn bè. Những mưu cầu của bạn ban đầu sẽ gặp nhiều trở ngại, rồi sau mới thành công. Hãy kiên trì tiến tới, không nản lòng mới thành công.
Quẻ này chủ có công mà lại bị oán. Tuy vậy nhưng nhờ có lòng son ngay thẳng mà về sau sự thật được phơi bày khiến tiếng thơm trở lại với mình. Sở dĩ được thế cũng là nhờ ở những lời thanh nghị, chứ nếu không thì tâm thực chẳng bao giờ được yên.
Người xin được quẻ này chỉ cần luôn giữ vững lòng son của mình là đủ.
Quẻ này là quẻ thất nhi phục đắc nghĩa là mất mà được lại. Nói một cách khác những việc mưu cầu ban đầu có lẻ sẽ bị thất bại trước rồi mới thành công sau.
Vậy những việc cầu xin của người, hãy kiên trì tiến tới mà đừng nên nản lòng mới nên công, như xưa có câu "Thế gian không có việc chi khó chỉ sợ lòng người không bền".

Con số linh ứng: .