KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 141 - HỎA THỦY VỊ TẾ ĐỘNG HÀO TAM
1. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế trong Kinh Dịch
Hỏa Thủy Vị Tế: Thất dã. Thất cách. Thất bát, mất, thất bại, dở dang, chưa xong, nửa chừng. Ưu trung vọng hỷ chi tượng: tượng trong cái lo có cái mừng.
Bình luận: Kinh Dịch kết thúc bằng quẻ Vị Tế (chưa xong việc) mà trước đó lại là quẻ Ký Tế (đã xong việc). Ý nghĩa của nó là mọi sự việc tưởng chừng như đã kết thúc nhưng thực ra thì không bao giờ kết thúc. Suy rộng ra thì vạn vật trong vũ trụ cũng vậy. Sự chuyển động, thay đổi nói chung là không có đầu mà cũng chẳng có cuối.
Kí tế là qua sông rồi, cũng rồi, nhưng theo luật thiên nhiên, không có lẽ nào hết hẳn được, hết mùa này đến mùa khác, hết thời này đến thời khác, hết lớp này đến lớp khác, sinh sinh hoá hoá hoài, cứ biến dịch vô cùng, cho nên tuy xong rồi nhưng vẫn là chưa hết, chưa cùng, do đó sau quẻ Kí tế tới quẻ Vị tế: chưa qua sông, chưa xong, chưa hết.
Nếu Ký Tế sáu hào đắc chính thì sáu hào của quẻ Vị Tế đều bất chính. Âm hào cư dương vị, nhiều hung hiểm khó có kết cục sáng sủa như mong đợi. Để tránh sa vào hiểm tốt nhất nên biết cách giữ mình.
Hình ảnh quẻ Hỏa Thủy Vị Tế
Thoán từ: Vị Tế hanh, tiểu hồ ngật tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi.
Chưa xong, chưa cùng: được hanh thông. Con chồn nhỏ sửa soạn vượt qua sông mà đã ướt cái đuôi, không qua được, không có gì lợi cả.
Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Khảm có ý nghĩa là lửa đặt ở trên của nước nên không thể giao hòa mọi việc khó mà thành công.
Quẻ này trái hẳn quẻ trên: lửa ở trên nước, nước và lửa không giao nhau, không giúp được nhau; cả 5 hào đều ở trái ngôi cả; dương ở vị âm, mà âm ở vị dương, cho nên gọi là vị tế: chưa xong.
Vị tế chứ không phải là bất tế, chưa qua sông được chứ không phải là không qua được, sẽ có thời qua được, lúc đó sẽ hanh thông. Thời đó là thời của hào 5, có đức nhu trung, biết thận trọng mà ở giữa quẻ Ly (thời văn minh). Vả lại tuy 5 hào đều trái ngôi, nhưng ứng viện nhau cương nhu giúp nhau mà nên việc: thêm một lẽ hanh thông nữa.
Thoán từ khuyên đừng nên như con chồn con, nóng nảy hấp tấp, mới sửa soạn qua sông mà đã làm ướt cái đuôi, không qua được nữa, không làm được việc gì lợi cả, không tiếp tục được đến cùng.
Đại tượng khuyên phải xem xét kỹ càng mà đặt người, vật vào chỗ thích đáng, thì mới nên việc, đừng đặt lửa ở trên nước chẳng hạn như quẻ này.
2. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế động hào tam theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
暗中防霹靂
猜慮渾無實
轉眼黑雲收
擁出扶桑日.
Dịch âm:
Ám trung phòng tích lịch
Sai lự hồn vô thực
Chuyển nhãn hắc vân thu
Ủng xuất phù tang nhật.
Dịch nghĩa:
Trong tối ngừa sấm sét
Đoán nhầm sự thực
Chớp mắt mây đen tan
Mặt trời đang xuất hiện.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Vị tế. Chinh hung. Lợi thiệp đại xuyên." (Chưa vượt qua sông. Xuất chinh có nguy hiểm. Nhưng lợi về việc vượt sông lớn.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, tượng quẻ cho thấy bạn đang gặp trở ngại lớ và đầy hung hiểm, nhưng rồi sẽ vượt qua được. Một khi mây đen tan biến thì mặt trời sẽ xuất hiện. Những mưu cầu của bạn ban đầu tuy gặp nhiều vấn đề nan giải, nhưng cứ bình tâm vững chí, rốt cuộc ắt sẽ được như ý.
Quẻ cho thấy: bọn tiểu nhân mưu hại. Tuy bị mưu hại nhưng tìm rõ được nguyên nhân khiến ta không có cách gì biện bác cho mình, hơn nữa cũng khó gột rửa được tiếng xấu. Được cái chỉ là bị vu oan nhất thời, cho nên vẫn thấy cái ngày sáng sủa buổi xưa. Trong trường hợp, thiết tưởng cũng không nên ôm giận kẻ khác.
Người xin được quẻ này cần có cái độ lượng khoan hồng, chớ nên căng thẳng đối chọi với lũ tiểu nhân.
Ý quẻ nói: Thình lình sét đánh vang dội, làm cho người phải hoảng hồn, thành ra phải lo âu, công việc sẽ bị hư hại, nhưng chẳng sao. Lát nữa mây đen sẽ tan mất mà mặt trời sẽ xuất hiện chói sáng khắp nơi.
Nghĩa là nói: Công việc cầu mưu của bạn bắt đầu tuy gặp khó khăn nan giải, nhưng người cứ bình chí, rút cuộc ắt được như chí vậy.
Con số linh ứng: .