KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 140 - HỎA THỦY VỊ TẾ ĐỘNG HÀO NHỊ
1. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế trong Kinh Dịch
Hỏa Thủy Vị Tế: Thất dã. Thất cách. Thất bát, mất, thất bại, dở dang, chưa xong, nửa chừng. Ưu trung vọng hỷ chi tượng: tượng trong cái lo có cái mừng.
Bình luận: Kinh Dịch kết thúc bằng quẻ Vị Tế (chưa xong việc) mà trước đó lại là quẻ Ký Tế (đã xong việc). Ý nghĩa của nó là mọi sự việc tưởng chừng như đã kết thúc nhưng thực ra thì không bao giờ kết thúc. Suy rộng ra thì vạn vật trong vũ trụ cũng vậy. Sự chuyển động, thay đổi nói chung là không có đầu mà cũng chẳng có cuối.
Kí tế là qua sông rồi, cũng rồi, nhưng theo luật thiên nhiên, không có lẽ nào hết hẳn được, hết mùa này đến mùa khác, hết thời này đến thời khác, hết lớp này đến lớp khác, sinh sinh hoá hoá hoài, cứ biến dịch vô cùng, cho nên tuy xong rồi nhưng vẫn là chưa hết, chưa cùng, do đó sau quẻ Kí tế tới quẻ Vị tế: chưa qua sông, chưa xong, chưa hết.
Nếu Ký Tế sáu hào đắc chính thì sáu hào của quẻ Vị Tế đều bất chính. Âm hào cư dương vị, nhiều hung hiểm khó có kết cục sáng sủa như mong đợi. Để tránh sa vào hiểm tốt nhất nên biết cách giữ mình.
Hình ảnh quẻ Hỏa Thủy Vị Tế
Thoán từ: Vị Tế hanh, tiểu hồ ngật tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi.
Chưa xong, chưa cùng: được hanh thông. Con chồn nhỏ sửa soạn vượt qua sông mà đã ướt cái đuôi, không qua được, không có gì lợi cả.
Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Khảm có ý nghĩa là lửa đặt ở trên của nước nên không thể giao hòa mọi việc khó mà thành công.
Quẻ này trái hẳn quẻ trên: lửa ở trên nước, nước và lửa không giao nhau, không giúp được nhau; cả 5 hào đều ở trái ngôi cả; dương ở vị âm, mà âm ở vị dương, cho nên gọi là vị tế: chưa xong.
Vị tế chứ không phải là bất tế, chưa qua sông được chứ không phải là không qua được, sẽ có thời qua được, lúc đó sẽ hanh thông. Thời đó là thời của hào 5, có đức nhu trung, biết thận trọng mà ở giữa quẻ Ly (thời văn minh). Vả lại tuy 5 hào đều trái ngôi, nhưng ứng viện nhau cương nhu giúp nhau mà nên việc: thêm một lẽ hanh thông nữa.
Thoán từ khuyên đừng nên như con chồn con, nóng nảy hấp tấp, mới sửa soạn qua sông mà đã làm ướt cái đuôi, không qua được nữa, không làm được việc gì lợi cả, không tiếp tục được đến cùng.
Đại tượng khuyên phải xem xét kỹ càng mà đặt người, vật vào chỗ thích đáng, thì mới nên việc, đừng đặt lửa ở trên nước chẳng hạn như quẻ này.
2. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế động hào nhị theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
遇不遇
逢不逢
月沈海底
人在夢中.
Dịch âm:
Ngộ bất ngộ
Phùng bất phùng
Nguyệt trầm hải để
Nhân tại mộng trung.
Dịch nghĩa:
Không gặp gỡ
Chẳng gần nhau
Trăng chìm đáy nước
Người trong giấc mộng.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Duệ kỳ luân. Trinh cát." (Lúc vượt sông nhấc cái đai the lên. Hào này tốt.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ nà có tượng khó khăn, trở ngại, nhưng không hại gì, thực là kỳ lạ. Làm người thiết tưởng chớ vì được mất mà lo rầu, gặp sông thì lội, gặp núi thì trèo, cứ phó mặc cho tự nhiên. Những ưu cầu của bạn có thể chưa hợp thời vận, song việc đời là do người ta tạo nên, cố gắng vượt qua thì có thể thành công.
Quẻ này chủ cái tượng: kẻ thất phu táng chí, người bạn nữ thương xuân. Hai câu thơ sau ngụ ý khuyên răng rất sâu xa. Người xin được quẻ này thiết tưởng chớ lấy điều đặc thất mà ban lòng khiến lo rầu táng chí.
Chi bằng phó mặc tự nhiên hòng mong điều đạt quan trong cõi thế.
Theo ý quẻ cho hay, việc cầu xin có thể hiệp, tính thời vận của người chiếm quẻ thì chưa gặp. Song việc đời do người ta tạo nên, đúng như có câu nói "Sự bại lâu vì" nên hãy cố gắng hăng hái cầu tiến, cũng có thể chiến thắng.
Con số linh ứng: .