KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 139 - HỎA THỦY VỊ TẾ ĐỘNG HÀO NHẤT

1. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế trong Kinh Dịch

Hỏa Thủy Vị Tế: Thất dã. Thất cách. Thất bát, mất, thất bại, dở dang, chưa xong, nửa chừng. Ưu trung vọng hỷ chi tượng: tượng trong cái lo có cái mừng.
Bình luận: Kinh Dịch kết thúc bằng quẻ Vị Tế (chưa xong việc) mà trước đó lại là quẻ Ký Tế (đã xong việc). Ý nghĩa của nó là mọi sự việc tưởng chừng như đã kết thúc nhưng thực ra thì không bao giờ kết thúc. Suy rộng ra thì vạn vật trong vũ trụ cũng vậy. Sự chuyển động, thay đổi nói chung là không có đầu mà cũng chẳng có cuối.
Kí tế là qua sông rồi, cũng rồi, nhưng theo luật thiên nhiên, không có lẽ nào hết hẳn được, hết mùa này đến mùa khác, hết thời này đến thời khác, hết lớp này đến lớp khác, sinh sinh hoá hoá hoài, cứ biến dịch vô cùng, cho nên tuy xong rồi nhưng vẫn là chưa hết, chưa cùng, do đó sau quẻ Kí tế tới quẻ Vị tế: chưa qua sông, chưa xong, chưa hết.

Nếu Ký Tế sáu hào đắc chính thì sáu hào của quẻ Vị Tế đều bất chính. Âm hào cư dương vị, nhiều hung hiểm khó có kết cục sáng sủa như mong đợi. Để tránh sa vào hiểm tốt nhất nên biết cách giữ mình.

Hình ảnh quẻ Hỏa Thủy Vị Tế

Thoán từ: Vị Tế hanh, tiểu hồ ngật tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi.

Chưa xong, chưa cùng: được hanh thông. Con chồn nhỏ sửa soạn vượt qua sông mà đã ướt cái đuôi, không qua được, không có gì lợi cả.

Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Khảm có ý nghĩa là lửa đặt ở trên của nước nên không thể giao hòa mọi việc khó mà thành công.

Quẻ này trái hẳn quẻ trên: lửa ở trên nước, nước và lửa không giao nhau, không giúp được nhau; cả 5 hào đều ở trái ngôi cả; dương ở vị âm, mà âm ở vị dương, cho nên gọi là vị tế: chưa xong.
Vị tế chứ không phải là bất tế, chưa qua sông được chứ không phải là không qua được, sẽ có thời qua được, lúc đó sẽ hanh thông. Thời đó là thời của hào 5, có đức nhu trung, biết thận trọng mà ở giữa quẻ Ly (thời văn minh). Vả lại tuy 5 hào đều trái ngôi, nhưng ứng viện nhau cương nhu giúp nhau mà nên việc: thêm một lẽ hanh thông nữa.
Thoán từ khuyên đừng nên như con chồn con, nóng nảy hấp tấp, mới sửa soạn qua sông mà đã làm ướt cái đuôi, không qua được nữa, không làm được việc gì lợi cả, không tiếp tục được đến cùng.
Đại tượng khuyên phải xem xét kỹ càng mà đặt người, vật vào chỗ thích đáng, thì mới nên việc, đừng đặt lửa ở trên nước chẳng hạn như quẻ này.

2. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế động hào nhất theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

奇奇奇
地利與天時
燈花傳信後
動靜總相宜.

Dịch âm:

Kì kì kì
Địa lợi dữ thiên thời
Đăng hoa truyền tín hậu
Động tĩnh tổng tương nghi.

Dịch nghĩa:

Lạ lạ lạ
Địa lợi và thiên thời
Hoa đèn truyền tín hiệu
Động tĩnh cả hai đều nên.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Nhu kỳ vĩ. Lận." (Để ướt đẫm cái đuôi. Không tốt)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này dù đã có địa lợi và thiên thời, nhưng cũng phải cần nhân hòa thì mới thành công. Lúc đó bạn làm gì cũng được. Hiện nay tình cảnh bạn có đủ thiên thời và địa lợi, tức là thời vận đã hành thông rồi, Những mưu cầu của bạn còn gì mà ngần ngại, cứ thẳng tiến. Do dự, nhút nhát là thất bại.
Quẻ này chủ anh lợi xứng lòng, chẳng cầu mà vẫn được. Tuy rằng do địa lợi thiên thời mới được toại, nhưng cũng là nhờ nhân hòa mới thành công như vậy. Từ nay về sau, tta có thể thong dong thẳng bước lên đài vinh quang, ngất ngưởng trên gác tía lầu son không còn có gì đáng lo ngại nữa.
Người xin được quẻ này dù có không tự lấy làm mừng thì thiên hạ cũng vì mình mà mừng thay.
Xưa có câu "Thiên địa hợp vạn vật hưng" nghĩa là trời đất hòa hợp thì tất cả sinh vật ắt phồn thịnh. Nay quẻ cho hay thiên thời và địa lợi đều được hết cả tức là ý chí thời vận của người đã hanh thông rồi. Vậy những công việc cầu xin còn gì ngần ngại mà chẳng thành công.

Con số linh ứng: .