KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 143 - HỎA THỦY VỊ TẾ ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế trong Kinh Dịch

Hỏa Thủy Vị Tế: Thất dã. Thất cách. Thất bát, mất, thất bại, dở dang, chưa xong, nửa chừng. Ưu trung vọng hỷ chi tượng: tượng trong cái lo có cái mừng.
Bình luận: Kinh Dịch kết thúc bằng quẻ Vị Tế (chưa xong việc) mà trước đó lại là quẻ Ký Tế (đã xong việc). Ý nghĩa của nó là mọi sự việc tưởng chừng như đã kết thúc nhưng thực ra thì không bao giờ kết thúc. Suy rộng ra thì vạn vật trong vũ trụ cũng vậy. Sự chuyển động, thay đổi nói chung là không có đầu mà cũng chẳng có cuối.
Kí tế là qua sông rồi, cũng rồi, nhưng theo luật thiên nhiên, không có lẽ nào hết hẳn được, hết mùa này đến mùa khác, hết thời này đến thời khác, hết lớp này đến lớp khác, sinh sinh hoá hoá hoài, cứ biến dịch vô cùng, cho nên tuy xong rồi nhưng vẫn là chưa hết, chưa cùng, do đó sau quẻ Kí tế tới quẻ Vị tế: chưa qua sông, chưa xong, chưa hết.

Nếu Ký Tế sáu hào đắc chính thì sáu hào của quẻ Vị Tế đều bất chính. Âm hào cư dương vị, nhiều hung hiểm khó có kết cục sáng sủa như mong đợi. Để tránh sa vào hiểm tốt nhất nên biết cách giữ mình.

Hình ảnh quẻ Hỏa Thủy Vị Tế

Thoán từ: Vị Tế hanh, tiểu hồ ngật tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi.

Chưa xong, chưa cùng: được hanh thông. Con chồn nhỏ sửa soạn vượt qua sông mà đã ướt cái đuôi, không qua được, không có gì lợi cả.

Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Khảm có ý nghĩa là lửa đặt ở trên của nước nên không thể giao hòa mọi việc khó mà thành công.

Quẻ này trái hẳn quẻ trên: lửa ở trên nước, nước và lửa không giao nhau, không giúp được nhau; cả 5 hào đều ở trái ngôi cả; dương ở vị âm, mà âm ở vị dương, cho nên gọi là vị tế: chưa xong.
Vị tế chứ không phải là bất tế, chưa qua sông được chứ không phải là không qua được, sẽ có thời qua được, lúc đó sẽ hanh thông. Thời đó là thời của hào 5, có đức nhu trung, biết thận trọng mà ở giữa quẻ Ly (thời văn minh). Vả lại tuy 5 hào đều trái ngôi, nhưng ứng viện nhau cương nhu giúp nhau mà nên việc: thêm một lẽ hanh thông nữa.
Thoán từ khuyên đừng nên như con chồn con, nóng nảy hấp tấp, mới sửa soạn qua sông mà đã làm ướt cái đuôi, không qua được nữa, không làm được việc gì lợi cả, không tiếp tục được đến cùng.
Đại tượng khuyên phải xem xét kỹ càng mà đặt người, vật vào chỗ thích đáng, thì mới nên việc, đừng đặt lửa ở trên nước chẳng hạn như quẻ này.

2. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

堪歎外邊憂
更嗟門裏鬧
意緒更牽纏
心神亦顛倒.

Dịch âm:

Kham thán ngoại biên ưu
Cánh ta môn lí náo
Ý tự cánh khiên triền
Tâm thần diệc điên đảo.

Dịch nghĩa:

Đang lo rầu chuyện bên ngoài
Nào ngờ trong nhà động
Ý vương vấn lo phiền
Tâm thần cũng điên đảo.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Trinh cát. Vô hối. Quân tử chi quang. Hữu phu cát." (Hào này tốt đẹp, không có khó khăn. Quân tử được vinh quang. Có điềm ứng rất cát lợi.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về tinh thần táng loạn, trong thì lo, ngoài thì nghi ngại. Bạn hiện đang lo phiền nhiều việc, tinh thần điên đảo, không biết làm cách nào giải quyết những việc đang vấp phải. Người được quẻ này nếu gắng gỏi thì sẽ được vinh quang, may mắn. Tuy nhiên, những mưu cầu của bạn khó mà được toại nguyện trng lúc này, phải trải qua một thời gian thì mới có thể thành công.
Quẻ này chủ táng loạn lưu ly nối gót mau tới trong thì lo, ngoài thì ngại, không thể nào đề phòng nổi. Đây là quẻ có cái tượng: tiến thoái lưỡng nan, mình muốn khóc mà không khóc được. Người xin được quẻ này chỉ mong sao giữ mình là đã may mắn lắm.
Quẻ thơ nói: Bạn hiện đang lo phiền nhiều việc, tinh thần điên đảo buồn khổ, không biết làm cách nào giải quyết những việc đang vấp phải.
Nói cách khác: Hiện nay thời vận của bạn chưa được hanh thông. Những việc cầu xin của bạn khó mà được toại nguyện trong lúc này, phải trải qua một thời gian nữa , thì mới có thể mưu tính việc một cách thành công.
Quẻ dạy: Xấu, bế tắc. Chớ cưỡng cầu tính e bất lợi. Ẫn nhẫn cho qua vận bỉ, thời xấu sau mới hay. Cầu danh, cầu lợi đều bất thông. Đánh số dở.

Con số linh ứng: 1, 3, 4, 11, 14, 33, 34, 41, 43, 44.