KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 144 - HỎA THỦY VỊ TẾ ĐỘNG HÀO LỤC

1. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế trong Kinh Dịch

Hỏa Thủy Vị Tế: Thất dã. Thất cách. Thất bát, mất, thất bại, dở dang, chưa xong, nửa chừng. Ưu trung vọng hỷ chi tượng: tượng trong cái lo có cái mừng.
Bình luận: Kinh Dịch kết thúc bằng quẻ Vị Tế (chưa xong việc) mà trước đó lại là quẻ Ký Tế (đã xong việc). Ý nghĩa của nó là mọi sự việc tưởng chừng như đã kết thúc nhưng thực ra thì không bao giờ kết thúc. Suy rộng ra thì vạn vật trong vũ trụ cũng vậy. Sự chuyển động, thay đổi nói chung là không có đầu mà cũng chẳng có cuối.
Kí tế là qua sông rồi, cũng rồi, nhưng theo luật thiên nhiên, không có lẽ nào hết hẳn được, hết mùa này đến mùa khác, hết thời này đến thời khác, hết lớp này đến lớp khác, sinh sinh hoá hoá hoài, cứ biến dịch vô cùng, cho nên tuy xong rồi nhưng vẫn là chưa hết, chưa cùng, do đó sau quẻ Kí tế tới quẻ Vị tế: chưa qua sông, chưa xong, chưa hết.

Nếu Ký Tế sáu hào đắc chính thì sáu hào của quẻ Vị Tế đều bất chính. Âm hào cư dương vị, nhiều hung hiểm khó có kết cục sáng sủa như mong đợi. Để tránh sa vào hiểm tốt nhất nên biết cách giữ mình.

Hình ảnh quẻ Hỏa Thủy Vị Tế

Thoán từ: Vị Tế hanh, tiểu hồ ngật tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi.

Chưa xong, chưa cùng: được hanh thông. Con chồn nhỏ sửa soạn vượt qua sông mà đã ướt cái đuôi, không qua được, không có gì lợi cả.

Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Khảm có ý nghĩa là lửa đặt ở trên của nước nên không thể giao hòa mọi việc khó mà thành công.

Quẻ này trái hẳn quẻ trên: lửa ở trên nước, nước và lửa không giao nhau, không giúp được nhau; cả 5 hào đều ở trái ngôi cả; dương ở vị âm, mà âm ở vị dương, cho nên gọi là vị tế: chưa xong.
Vị tế chứ không phải là bất tế, chưa qua sông được chứ không phải là không qua được, sẽ có thời qua được, lúc đó sẽ hanh thông. Thời đó là thời của hào 5, có đức nhu trung, biết thận trọng mà ở giữa quẻ Ly (thời văn minh). Vả lại tuy 5 hào đều trái ngôi, nhưng ứng viện nhau cương nhu giúp nhau mà nên việc: thêm một lẽ hanh thông nữa.
Thoán từ khuyên đừng nên như con chồn con, nóng nảy hấp tấp, mới sửa soạn qua sông mà đã làm ướt cái đuôi, không qua được nữa, không làm được việc gì lợi cả, không tiếp tục được đến cùng.
Đại tượng khuyên phải xem xét kỹ càng mà đặt người, vật vào chỗ thích đáng, thì mới nên việc, đừng đặt lửa ở trên nước chẳng hạn như quẻ này.

2. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế động hào lục theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

一重山一重水
風波道坦然
壺中有別天.

Dịch âm:

Nhất trùng sơn nhất trùng thuỷ
Phong ba đạo thản nhiên
Hồ trung hữu biệt thiên.

Dịch nghĩa:

Lớp lớp non trùng trùng nước
Đường sóng gió vẫn an nhiên
Trong bình kín có trời riêng.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Hữu phu, vu ẩm tửu, vô cữu. Nhu kỳ thủ, hữu phu, thất thị." (Có điềm liên quan đến việc uống rượu chúc mừng, không có tai họa gì. Khi vượt sông bị ướt cái tùi trước ngực, có điềm phạm vào sai lầm.)
Theo ý thơ của Khổng minh, quẻ này chủ về phải trải qua những khó khăn, lao khổ, nưng quả thực nguy hiểm thì không có. Những mưu cầu của bạn tuy cũng có trục trặc nhưng sẽ gặp nhiều may mắn, và được quý nhân đến giúp, cứ giữ vững ý định mà tiến hành. Cầu tài, cầu lợi đề rất thuận lợi.
Quẻ này chủ trải khắp nơi gập ghềnh khó đi mới tới được chỗ bằng phẳng. Lao khổ thì có đấy nhưng quả thực nguy hiểm thì chưa có. Trong hồ nọ, tự có riêng một cảnh, lúc đó, mới tin rằng bặt thiệp giang hà cũng không phải là phí công vô ích, trái lại nhờ đó mới tới được nơi giai cảnh. Đây là quẻ thuộc loại trung cát.
Quẻ cho biết non nước tiếp liền, một cảnh thanh bình, gió sóng êm lặng, đường lộ thẳng bằng, là chỉ cho bạn hay rằng, thời vận của bạn đẹp đẽ như thế, tức là đời của bạn lên hương đó.
Những việc mưu của bạn ắt gặp nhiều may mắn, và quý nhân đến giúp cho công việc thành đạt mỹ mãn, cứ nắm giữ ý định tiến hành đi, chớ lo có gì trở ngại nữa.
Thời vận hanh thông. Giàu sang danh lợi đến kỳ. Cầu tài cầu lợi rất mát mái, xuôi chèo. Đánh số càng hạp.

Con số linh ứng: 1, 4, 10, 11, 14, 40, 41, 44.