KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 117 - HỎA SƠN LỮ ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Hỏa Sơn Lữ trong Kinh Dịch

Hỏa Sơn Lữ: Khách dã. Thứ yếu. Đỗ nhờ, khách, ở đậu, tạm trú, kê vào, gá vào, ký ngụ bên ngoài, tính cách lang thang, ít người thân, không chính. Ỷ nhân tác giá chi tượng: nhờ người mai mối.
Thịnh lớn đến cùng cực thì phải suy, đến nỗi mất chỗ ở, phải đi ở đậu đất khách, cho nên sau quẻ Phong tới quẻ Lữ. Lữ là bỏ nhà mà đi tha phương.

Quẻ Lữ là tình cảnh bỏ nhà để đi làm lữ khách. Đây là tình cảnh mất đi thực lực bản thân mà phải lệ thuộc vào người khác, giống như lãnh đạo bị áp chế. Hoặc cũng có thể hiểu là trí thông minh rọi sáng nhưng bị ngục tù, lưu trệ.

Hình ảnh quẻ Hỏa Sơn Lữ

Thoán từ: Lữ tiểu hanh, lữ trinh cát.

Ở đậu; hơi hanh thông. Đi ở đậu mà giữ đạo chính thì tốt.

Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Cấn có nghĩa là lửa ở núi thì chiếu sáng ra xa còn hễ đi nơi khác thì lại bị u tối.

Chỗ ở của lửa là mặt trời hay lò, chứ không phải ở trên núi: trên núi lâu lâu vẫn có đám lửa cháy rừng hay đốt rừng, nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi. Cho nên dùng các tượng lửa (ly) ở trên núi Cấn để chỉ cảnh bỏ nhà mà đi ở đậu quê người.
Cảnh đó là cảnh bất đắc dĩ, nhiều lắm chỉ có thể hơi hanh thông được thôi, nếu người đi ở đậu biết giữ đức trung, thuận, như hào 5, yên lặng như nội quái Cấn, sáng suốt như ngoại quái Ly. Hào 5 đắc trung mà lại là âm ở giữa hai hào dương, biết thuận theo dương. Cái đạo ở đậu là mềm mỏng, đừng làm cao để người ta khỏi ghét; nhưng mặt khác, cũng phải yên lặng sáng suốt giữ tư cách, đạo chính của mình để người ta khỏi khinh. Giữ cho đạo được nghĩa lý trong hoàn cảnh đó thật là khó (lữ chỉ thời nghĩa, đại hĩ tai: lời Thoán truyện).
Đại tượng truyện cũng lại áp dụng vào việc hình pháp, khuyên phải xử đoán sáng suốt (Ly) và thận trọng (như Cấn) đừng giam tội nhân quá lâu trong ngục (quân tử dĩ minh thận dụng hình, như bất lưu ngục)

2. Quẻ Hỏa Sơn Lữ động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

珠玉走盤中
田園定阜豐
休言謀未遂
此去便亨通.

Dịch âm:

Châu ngọc tẩu bàn trung
Điền viên định phụ phong
Hưu ngôn mưu vị toại
Thử khứ tiện hanh thông.

Dịch nghĩa:

Châu ngọc chạy vô mâm
Ruộng vườn thêm sung túc
Đừng nói việc chưa rồi
Vận may đến đúng lúc.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Lữ phần kỳ thứ, táng kỳ đồng bộc. Trinh lệ." (Đi xa tạm ngụ nhà khách bị thiêu cháy, nô bộc chạy mất. Hào này có nguy hiểm.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về tuy đang ở trong cảnh khó khăn, nguy hiểm ở xa, nhưng từ nay sẽ hanh thông. Vận trình của bạn đã đến lúc lên hương, những mưu tính của bạn hãy mau thực hiện. Cầu tài, cầu lợi sẽ thành.
Quẻ này chủ điều tốt lành, người ăn ở có nhân ắt giàu có. Từ nay, khỏi cần lo mưu sắp kế, lo lắng xoay xở, mà vành nhọc vẩn đầy rương, thóc lúa vẫn đầy kho, thực không có chỗ nào mà không phải giai cảnh. Tuy được vậy thiết tưởng vẫn một lòng hòa mục hiếu nữa để vun trồng cội phúc.
Ý quẻ cho biết: Vận trình của bạn đã đến lúc lên hương như châu ngọc đang sắp trong mâm, và như ruộng vườn được mùa. Nên quẻ thơ khuyên tiếp rằng, chớ nên than thở nữa, mà từ đây trở đi ắt được hanh thông trong mọi việc cầu mưu đấy.
Vậy những việc mưu tính của bạn hãy mau tiến tới, đừng chần chờ than thở mà mất những giờ phút may mắn ấy.
Quẻ dạy: Thời vận thái đến rồi. Đừng phân vân, than thở nữa, thành công vận đến cứ thế mà đi, cầu tài, cầu lợi đắc quả, đánh số hạp.

Con số linh ứng: 1, 7, 10, 11, 77.