KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 119 - HỎA SƠN LỮ ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Hỏa Sơn Lữ trong Kinh Dịch

Hỏa Sơn Lữ: Khách dã. Thứ yếu. Đỗ nhờ, khách, ở đậu, tạm trú, kê vào, gá vào, ký ngụ bên ngoài, tính cách lang thang, ít người thân, không chính. Ỷ nhân tác giá chi tượng: nhờ người mai mối.
Thịnh lớn đến cùng cực thì phải suy, đến nỗi mất chỗ ở, phải đi ở đậu đất khách, cho nên sau quẻ Phong tới quẻ Lữ. Lữ là bỏ nhà mà đi tha phương.

Quẻ Lữ là tình cảnh bỏ nhà để đi làm lữ khách. Đây là tình cảnh mất đi thực lực bản thân mà phải lệ thuộc vào người khác, giống như lãnh đạo bị áp chế. Hoặc cũng có thể hiểu là trí thông minh rọi sáng nhưng bị ngục tù, lưu trệ.

Hình ảnh quẻ Hỏa Sơn Lữ

Thoán từ: Lữ tiểu hanh, lữ trinh cát.

Ở đậu; hơi hanh thông. Đi ở đậu mà giữ đạo chính thì tốt.

Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Cấn có nghĩa là lửa ở núi thì chiếu sáng ra xa còn hễ đi nơi khác thì lại bị u tối.

Chỗ ở của lửa là mặt trời hay lò, chứ không phải ở trên núi: trên núi lâu lâu vẫn có đám lửa cháy rừng hay đốt rừng, nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi. Cho nên dùng các tượng lửa (ly) ở trên núi Cấn để chỉ cảnh bỏ nhà mà đi ở đậu quê người.
Cảnh đó là cảnh bất đắc dĩ, nhiều lắm chỉ có thể hơi hanh thông được thôi, nếu người đi ở đậu biết giữ đức trung, thuận, như hào 5, yên lặng như nội quái Cấn, sáng suốt như ngoại quái Ly. Hào 5 đắc trung mà lại là âm ở giữa hai hào dương, biết thuận theo dương. Cái đạo ở đậu là mềm mỏng, đừng làm cao để người ta khỏi ghét; nhưng mặt khác, cũng phải yên lặng sáng suốt giữ tư cách, đạo chính của mình để người ta khỏi khinh. Giữ cho đạo được nghĩa lý trong hoàn cảnh đó thật là khó (lữ chỉ thời nghĩa, đại hĩ tai: lời Thoán truyện).
Đại tượng truyện cũng lại áp dụng vào việc hình pháp, khuyên phải xử đoán sáng suốt (Ly) và thận trọng (như Cấn) đừng giam tội nhân quá lâu trong ngục (quân tử dĩ minh thận dụng hình, như bất lưu ngục)

2. Quẻ Hỏa Sơn Lữ động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

朦朧秋月映朱門
林外鳥聲遠寺僧
自有貴人來接引
何須巧語似流鶯.

Dịch âm:

Mông lung thu nguyệt ánh châu môn
Lâm ngoại điểu thanh viễn tự tăng
Tự hữu quí nhân lai tiếp dẫn
Hà tu xảo ngữ tự lưu oanh.

Dịch nghĩa:

Mơ hồ trăng thu chiếu cửa son
Tăng ở chùa xa nghe tiếng chim
Có quí nhân giúp đỡ
Cần gì trau chuốt nói khéo giọng oanh.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Xạ trĩ, nhất thỉ vong. Chung dĩ dự mệnh." (Bắn trúng con chim trĩ, chim trĩ mang mũ tên bay mất. Cuối cùng cũng được khen ngợi.)
Theo ý thở của Khổng Minh, quẻ này có tượng sắp được hưng phát, cho nên khỏi cần phải cầu cạnh mà làm gì. Người được quẻ này chỉ cần đợi thời cơ mà hành động, ắt sẽ gặp quý nhân. Những mưu cầu của bạn không tốt mà cũng chẳng xấu lắm, sẽ có người tự nhiên đến tượng trợ. Nhưng đừng nói nhiều, để họ tự làm. Cầu tài, cầu lợi sắp thông.
Quẻ này có cái triệu sắp sửa phi đằng hùng tiến, cho nên khỏi cần phải lời hay nói khéo, ráo riết tranh cạnh mà làm gì. Người xin được quẻ này chỉ cần biết đợi thời mà hành động, ắt có giai ngộ. Đây là một quẻ có cái tượng hạnh thông.
Theo ý quẻ cho biết rằng: Những việc cầu xin của bạn không tốt mà chẳng xấu, chưa chắc thành công cũng không thấy hỏng như trăng thu tuy mờ ám mà vẫn còn ánh sáng chói rọi. Song quẻ lại nói tự có quý nhân đến dìu dắt, chẳng cần lời ngọt như tà ma.
Vậy những việc cầu xin của bạn hiện nay, tuy còn trong cảnh lừng chừng chưa được sáng tỏ lắm, nhưng cứ kiên nhẫn chờ đợi và tự nhiên đừng quá cưỡng cầu, thì việc cầu cũng sẽ được toại nguyện chẳng lo.
Quẻ dạy: Sắp hanh thông thời vận đến nơi, hữu xạ tự nhiên hưởng, nên có tiếng đồn xa, làm quý nhân tìm đến giúp đỡ. Nhưng đừng nói nhiều, để tự họ giúp. Cầu tài, cầu lợi thông, Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 9, 10, 11, 90, 99.