KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 106 - HỎA LÔI PHỆ HẠP ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp trong Kinh Dịch

Hỏa Lôi Phệ Hạp: Khiết dã. Cấn hợp. Cẩu hợp, bấu víu, bấu quào, dày xéo, đay nghiến, phỏng vấn, hỏi han (học hỏi). Ủy mị bất chấn chi tượng: tượng yếu đuối không chạy được.
Tự quái truyện giảng: tình, lý có chỗ khả quan rồi sau mới hợp nhau được; nhưng muốn cho hợp nhau thì trước hết phải trừ sự ngăn cách đã, cho nên sau quẻ Quan, tới quẻ Phệ hạp. Phệ là cắn, là trừ (sự ngăn cách), hạp là hợp.

Quẻ Phệ Hạp thể hiện yếu tố ngang trở, mọi việc không được thông suốt, nên phải biết trừ bỏ yếu tố ngăn trở thì mới hanh. Quẻ này đòi hỏi có 2 đức là trí tuệ và can đảm mọi việc sẽ tiến triển tốt hơn.

Hình ảnh quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp

Thoán từ: Phệ hạp hanh, lợi dụng ngục

Căn để hợp lại, như vậy là hanh thông; dùng vào việc hình ngục thì có lợi.

Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Chấn nghĩa là sấm có sức động và lửa có sức phát sáng. Quẻ này là cách thể hiện mối giãn cách dễ dẫn đến những chia rẽ.

Quẻ Phệ hạp này nói về việc hình ngục.
Hào sơ và hào trên cùng là hai vạch liền, tượng như hàm trên và hàm dưới; ở giữa có ba vạch đứt, là miệng há ra; xen vào một vạch liền như một cái quẻ cản ngang miệng, làm gián cách hai hàm răng; Phải cắn gãy, trừ nó đi rồi hai hàm mới hợp với nhau được.
Trong xã hội, kẻ gián cách đó là bọn gian tà, sàm nịnh bưng bít kẻ trên người dưới mà trên không thông tới dưới, dưới không đạt tới trên. Cho nên phải dùng hình ngục để trừ chúng.
Hình ngục muốn có kết quả thì phải vừa uy, vừa sáng suốt. Nội quái Chấn là uy; ngoại quái Ly là sáng suốt.
Lại xét riêng hào 5, hào làm chủ trong quẻ; nó ở ngôi cao, âm nhu mà đắc trung, là có ý khuyên dùng hình ngục tuy phải uy, phải cương, nhưng vẫn nên có một chút nhu, hiếu sinh; nếu chỉ cương thôi thì hóa ra tàn khốc, hiếu sát mất.
Đó là đại ý Thoán truyện. Đại tượng truyện bảo tiên vương theo ý nghĩa quẻ Phệ hạp này mà làm sáng tỏ sự trừng phạt và răn bảo bằng pháp luật. (Tiên vương dĩ minh phạt, sắc pháp: 先王以明罰, 敕法 cũng có người hiểu là sắp đặt pháp luật hoặc ban bố pháp luật)

2. Quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

天間一孤雁
嘹唳歎離群
試問知君者
而今有幾人.

Dịch âm:

Thiên gian nhất cô nhạn
Liêu lệ thán ly quần
Thí vấn tri quân giả
Nhi kim hữu kỷ nhân.

Dịch nghĩa:

Nhạn lẻ chốn nhân gian
Lìa đàn cô quạnh than
Hỏi ai người biết
Trong trần có mấy người tri âm.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Phệ can tỉ. Đắc kim thỉ. Lợi gian trinh, cát." (Cắn phải miếng thịt khô có xương. Được mũi tên đồng. Hào này có lợi với người đang ở hoàn cảnh gian nan, tốt đẹp.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng người thì tài nhưng chưa có đất dụng võ, thành thử luân lạc nơi góc bể chân trời. Người được quẻ này đang ở trong cảnh cô thế, hành sự khó khăn và khó đạt thành sở nguyện. Thời vận của bạn chưa được hanh thông, và chưa được quý nhân phù trợ. Cần phải có bạn bè để nhờ cậy. Cầu tài cầu danh còn chậm.
Quẻ này ý nói khúc thì cao mà họa thì không người, thực là rời rạc khó lên.
Người thì tài nhưng không có chỗ dùng, thà thành thử luân lạc nơi bốc bể biển trời, lòng tràn ngập những nổi buồn đáng phàn nàn, khó có thể có ngày mở mày mở mặt.
Người xin được quẻ này tưởng cần phải cẩn thận, chớ nên bặt thiệp làm chi chỉ tổ vất vả cuộc đời.
Cô nhạn ly quần tiếng thét thanh thao ai sầu, đó là tả cảnh cô đơn sức yếu hành sự khó khăn và khó thành đạt nguyện cầu, nên hai câu sau trong thơ lại tiếp rằng kẻ biết mình còn có ai đâu! Càng nói rõ sự cô đơn cảnh tình của người.
Do đó, ý quẻ muốn nói, những việc cầu xin của người. Khó mà thành công toại nguyện. Vì thời vận của người chưa được hanh thông, sức lực cô đơn và chưa được quý nhân phù hợp.
Quẻ dạy: Cần có bạn bè, tay chân, để nhờ cậy. Đơn côi một mình như 1 cô nhạn mà thôi. Cầu tài cầu danh chẳng lợi. Đánh số bất thông. Biểu tượng: chim nhạn.

Con số linh ứng: 6, 10, 11, 16, 66.