KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 111 - HỎA ĐỊA TẤN ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Hỏa Địa Tấn trong Kinh Dịch

Hỏa Địa Tấn: Tiến dã. Hiển hiện. Đi hoặc tới, tiến tới gần, theo mực thường, lửa đã hiện trên đất, trưng bày. Long kiến trình tường chi tượng: tượng rồng hiện điềm lành.
Đã tráng thịnh thì tất nhiên phải tiến lên, cho nên sau quẻ Đại tráng tới quẻ Tấn [晉], Tấn có nghĩa là tiến [進] lên.

Quẻ Tấn thể hiện tình thế nguy hiểm đã hết, bắt đầu thời kỳ văn minh, sáng sủa, anh minh tiến bước lên vị trí cao hơn. Thời cơ thuận tiện đã đến, hành động tấn nên có người tài hướng với mình và biết lượng sức mình để tiến đâu thắng đó, tiến quá sức mình có thể dẫn tới thất bại.

Hình ảnh quẻ Hỏa Địa Tấn

Thoán từ: Tấn, khang hầu dụng tích mã phồn thứ, trú nhật tam tiếp.

Tiến lên, bậc hầu có tài trị nước được thưởng ngựa nhiều lần, ban ngày được tiếp tới ba lần.

Tượng quẻ: Ngoại quái Ly, nội quái Khôn nghĩa là mặt trời mọc lên trên mặt đất, mang đến những bước tiến mới tốt đẹp hơn.

Quẻ này có tượng mặt trời (ly) lên khỏi mặt đất (Khôn), càng lên cao càng sáng, tiến mạnh.
Lại có thể hiểu là người dưới có đức thuận (Khôn) dựa vào bậc trên có đức rất sáng suốt (☲); cho nên ví với một vị hầu có tài trị dân (Khang hầu) được vua tín nhiệm, thưởng (tích) ngựa nhiều lần, nội một ngày mà được vua tiếp tới ba lần.
Thoán truyện giảng thêm: quẻ này hào 5 có cái tượng một hào âm nhu tiến lên địa vị vua chúa: nhu tiên nhi thượng hành. Theo Chu Hi, như vậy là vì quẻ Tấn do quẻ Quán biến thành: hão quẻ Quán là âm, nhảy lên trên, thành 5 quẻ Tấn. Phan Bội châu hiểu khác: hào 5 vốn là hào dương giữa quẻ Càn, biến thành hào âm ở giữa ngoại quái Ly của quẻ Tấn. Theo tôi, cách hiểu của Chu Hi dễ chấp nhận hơn.
Đại tượng truyện khuyên người quân tử xem tượng quẻ Tấn này nên tự làm cho đức của mình càng ngày càng sáng như mặt trời hiện lên khỏi mặt đất rồi tiến mãi lên.

2. Quẻ Hỏa Địa Tấn động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

秋霜肅
夏日炎
新花鮮了舊花淹
世情看冷暖
逢者不須言.

Dịch âm:

Thu sương túc
Hạ nhật viêm
Tân hoa tiên tiển liễu cựu hoa yêm
Thế tình khan lãnh noãn
Phùng giả bất tu ngôn.

Dịch nghĩa:

Sương thu ngắn lại
Trời hạ nóng chang
Hoa mới tươi tốt hoa cũ héo tàn
Tình đời là vậy
Luận bàn chi nữa không nhờ cậy được ai đâu.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Chúng doãn. Hối vong." (Mọi người tin theo, khó khăn có thể khắc phục.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, bạn đang ở trong hoàn cảnh tình đời ấm lạnh thất thường, thời vận không thông. Người được quẻ này nên có tư tưởng khoáng đạt hơn, chớ nên lắm lời với người làm gì. Thời vận chưa đến, hãy chờ đợi, những mưu cầu của bạn cũng không nên vội vã, và hãy tự lo cho mình, chớ trông cậy vào ai. Cầu danh, cầu lợi đều chưa được.
Chuyện đời thật không sao nói hết được, chẳng qua cũng chỉ như nước chảy dưới cây, mây trắng hóa cho xanh mà thôi. Phải là người đạt đạo mới thấu hiểu được thế thái nhân tình đen bạc ấm lạnh. Người xin được quẻ này nên có ý nghĩ khoáng đạt hơn, khỏi cần mưu tính kế gì thêm mệt.
Theo ý quẻ nói rằng: Hiện cảnh tình của bạn đang ở trong hoàn cảnh của một thế thái nhân tình ấm lạnh, như khi trời nóng lạnh bất thường nghĩa là thời vận của bạn hiện nay tắt nẻo không thông, nên quẻ khuyên người chớ nên lắm lời với người ta mà vô ích.
Vật ý quẻ dạy rằng: Thời vận chưa đến, ta hãy chờ đợi và những việc cầu xin của người, không nên vội vã và làm càng rồi sẽ hỏng mất việc.
Quẻ dạy: Mình hãy tự lo cho mình, chớ trông cậy ai làm gì. Vì nhân tình nào ấm lạnh có ra chi! Mình tự tránh mình là hơn, ẩn nhẫn chờ đợi qua thời. Chưa cầu danh, cầu lợi được, đánh số bất thông.

Con số linh ứng: 1, 10, 11.