KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 352 - ĐỊA THỦY SƯ ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Địa Thủy Sư trong Kinh Dịch

Địa Thủy Sư: Chúng dã. Chúng trợ. Đông chúng, vừa làm thầy, vừa làm bạn, học hỏi lẫn nhau, nắm tay nhau qua truông, nâng đỡ. Sĩ chúng ủng tòng chi tượng: tượng quần chúng ủng hộ nhau.
Kiện tụng là tranh nhau, tranh nhau thì lập phe, có đám đông nổi lên; cho nên sau quẻ Tụng tới quẻ Sư – Sư là đám đông, cũng có nghĩa là quân đội.

Sư là quân chúng. Quẻ này toàn hào âm trừ Cửu Nhị làm chủ quẻ. Dương cương đắc trung, hình dung như một tướng lĩnh đem quân đi đánh giặc. Trượng nhân là tiếng để gọi bậc trưởng lão, cái đạo dùng quân lợi về được chính đính, mà phải dùng người lão thành, mới được tốt mà không lo có lỗi.

Hình ảnh quẻ Địa Thủy Sư

Thoán từ: Sư trinh, trượng nhân cát, vô cữu.

Quân đội mà chính đáng (có thể hiểu là bên chí), có người chỉ huy lão thành thì tốt, không lỗi.
(Có sách hảo hai chữ “trượng [ 丈] nhân” chính là “đại [大] nhân) người tài đức)

Tượng quẻ: Quẻ Sư dưới Khảm trên Khôn. Khảm là nước. Khôn là đất. Đời xưa ngụ hình ở nông, thường núp cái rất hiểm chỗ cả thuận, giấu cái không thể lường trong chỗ rất tĩnh.

Trên là Khôn, dưới là Khảm mà sao lại có nghĩa là đám đông, là quân đội ? có 4 cách giảng:
- Đại tượng truyện bảo Khôn là đất, Khảm là nước, ở giữa đất có nước tụ lại, tượng là quần chúng nhóm họp thành đám đông.
- Chu Hi bảo ở dưới, Khảm là hiểm; ở trên, Khôn là thuận; người xưa gởi binh ở trong việc nông (thời bình là nông dân, nhưng vẫn tập tành võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông).
- Chu Hi còn giảng cách nữa: hào 2 là dương, nằm ở giữa nội quái là tượng ông tướng, 5 hào kia là âm nhu, mềm mại, giao quyền cho 2 điều khiển quân lính (4 hào kia).
Thoán truyện giảng: xuất quân là việc nguy hiểm (quẻ Khảm), độc hại, nhưng nếu xuất quân vì chính nghĩa (trinh chính), để trừ bạo an dân thì dân sẽ theo (Khôn: thuận), sẽ giúp đỡ mình, mình sai khiến được, thì sẽ tốt, lập được nghiệp vương thống trị thiên hạ, không có tội lỗi.

2. Quẻ Địa Thủy Sư động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

鼠為患終宵不得甯
貓兒一叫幾夜太平
人豈識如獸
其理甚分明.

Dịch âm:

Thử vi hoạn chung tiêu bất đắc nịnh
Miêu nhi nhất khiếu kỷ dạ thái bình
Nhân khởi thức như thú
Kỳ lý thậm phân minh.

Dịch nghĩa:

Ban đêm chuột khó tránh khỏi tai họa
Mèo kêu một tiến đêm sẽ bình yên
Nên biết việc người cũng tương tự việc của loài thú
Lẽ ấy quá rõ ràng.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Sư tả thứ, vô cữu." (Quân dừng lại trú binh nghỉ ngơi ở phía bên trái thì không tai vạ.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về nhân thời cơ thuận lợi mà hưng khởi, vừa dễ dàng lại vừa nhanh lẹ. Ngày sau ắt sẽ thành tựu không thể lường được. Cảnh tình hiện này của bạn giống như con chim ưng đang tung hoành trên bầu trời. Những mưu cầu của bạn ắts ẽ toại nguyện trong những ngày gần đây.
Quẻ này chủ nhân thời cơ thuận lợi là hưng khởi. Vừa dễ lại vừa lẹ. Ngày sau ắt sẽ thành tựu, chưa thể lường được ra sao. Người xin được quẻ này có thể xin được quẻ thượng thượng đại cát (tốt tốt lắm).
Quẻ thơ tả cảnh hiện nay của bạn hiện ra như chim ó trong mùa thu đang được thế mạnh cỡi gió bay thẳng cửu trùng mây đó. Nghĩa là giờ đây vận thời của bạn rất là may mắn chẳng có gì nguy hiểm.
Vậy sự cầu mưu của bạn ắt toại nguyện trong ngày gần đây trên đường kinh doanh, cũng như đường công danh.
Long vân gặp hội, lo gì chẳng nên công, vinh hiển, giàu sang. Quẻ tốt. Đánh

Con số linh ứng: 1, 3, 5, 15, 35, 51, 53.