KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 350 - ĐỊA THỦY SƯ ĐỘNG HÀO NHỊ

1. Quẻ Địa Thủy Sư trong Kinh Dịch

Địa Thủy Sư: Chúng dã. Chúng trợ. Đông chúng, vừa làm thầy, vừa làm bạn, học hỏi lẫn nhau, nắm tay nhau qua truông, nâng đỡ. Sĩ chúng ủng tòng chi tượng: tượng quần chúng ủng hộ nhau.
Kiện tụng là tranh nhau, tranh nhau thì lập phe, có đám đông nổi lên; cho nên sau quẻ Tụng tới quẻ Sư – Sư là đám đông, cũng có nghĩa là quân đội.

Sư là quân chúng. Quẻ này toàn hào âm trừ Cửu Nhị làm chủ quẻ. Dương cương đắc trung, hình dung như một tướng lĩnh đem quân đi đánh giặc. Trượng nhân là tiếng để gọi bậc trưởng lão, cái đạo dùng quân lợi về được chính đính, mà phải dùng người lão thành, mới được tốt mà không lo có lỗi.

Hình ảnh quẻ Địa Thủy Sư

Thoán từ: Sư trinh, trượng nhân cát, vô cữu.

Quân đội mà chính đáng (có thể hiểu là bên chí), có người chỉ huy lão thành thì tốt, không lỗi.
(Có sách hảo hai chữ “trượng [ 丈] nhân” chính là “đại [大] nhân) người tài đức)

Tượng quẻ: Quẻ Sư dưới Khảm trên Khôn. Khảm là nước. Khôn là đất. Đời xưa ngụ hình ở nông, thường núp cái rất hiểm chỗ cả thuận, giấu cái không thể lường trong chỗ rất tĩnh.

Trên là Khôn, dưới là Khảm mà sao lại có nghĩa là đám đông, là quân đội ? có 4 cách giảng:
- Đại tượng truyện bảo Khôn là đất, Khảm là nước, ở giữa đất có nước tụ lại, tượng là quần chúng nhóm họp thành đám đông.
- Chu Hi bảo ở dưới, Khảm là hiểm; ở trên, Khôn là thuận; người xưa gởi binh ở trong việc nông (thời bình là nông dân, nhưng vẫn tập tành võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông).
- Chu Hi còn giảng cách nữa: hào 2 là dương, nằm ở giữa nội quái là tượng ông tướng, 5 hào kia là âm nhu, mềm mại, giao quyền cho 2 điều khiển quân lính (4 hào kia).
Thoán truyện giảng: xuất quân là việc nguy hiểm (quẻ Khảm), độc hại, nhưng nếu xuất quân vì chính nghĩa (trinh chính), để trừ bạo an dân thì dân sẽ theo (Khôn: thuận), sẽ giúp đỡ mình, mình sai khiến được, thì sẽ tốt, lập được nghiệp vương thống trị thiên hạ, không có tội lỗi.

2. Quẻ Địa Thủy Sư động hào nhị theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

巴到平安地
江山萬里程
綠楊芳草處
風快馬蹄輕.

Dịch âm:

Ba đáo bình an địa
Giang sơn vạn lí trình
Lục dương phương thảo xứ
Phong khoái mã đề khinh.

Dịch nghĩa:

Đã tới nơi yên lành
Núi sông ngàn dặm qua
Nơi cỏ thơm dương xanh
Gió đưa ngựa phi nhanh.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tại sư trung cát, vô cữu, vương tam tứ mệnh." (Ở trong quân, tốt lanh, không tai vạ, còn được vua ba lân ban thưởng.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về họa đã qua, phúc đang đến. Mọi việc đều thuận buồm xuôi gió đến tuổi già. Người được quẻ này sự nghiệp sẽ thành tưu, tình duyên sẽ như ý, công danh sẽ hiển đạt.
Quẻ này chủ họa đi phúc về, thuyền thuận nước buồm thuận gió, thẳng tới mãi lúc già, đều được vui vẻ, khỏi còn có những nghịch cảnh đáng phàn nàn than thở nữa. Người xin được quẻ này tin chắc rằng về già sẽ được đắc ý hơn người.
Ý thơ nói rằng sóng đã qua, thuyền thuận buồm xuôi gió. Công danh sẽ thành, vậy sở cầu của bạn ắt thành đạt. Tình duyên sẽ được như ý. Thi cử công danh sẽ hiển đạt. Chẳng còn trắc trở, hãy cố gắng để mau vươn tới vinh quang đó. Đừng nên lừng chừng mà hỏng việc.
Sự sự quang minh, vạn ý vạn tình. Chẳng lo gì nữa cả. Mọi sự như ý sở cầu. Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 3, 4, 9, 34, 39, 43, 49, 94.