KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 349 - ĐỊA THỦY SƯ ĐỘNG HÀO NHẤT

1. Quẻ Địa Thủy Sư trong Kinh Dịch

Địa Thủy Sư: Chúng dã. Chúng trợ. Đông chúng, vừa làm thầy, vừa làm bạn, học hỏi lẫn nhau, nắm tay nhau qua truông, nâng đỡ. Sĩ chúng ủng tòng chi tượng: tượng quần chúng ủng hộ nhau.
Kiện tụng là tranh nhau, tranh nhau thì lập phe, có đám đông nổi lên; cho nên sau quẻ Tụng tới quẻ Sư – Sư là đám đông, cũng có nghĩa là quân đội.

Sư là quân chúng. Quẻ này toàn hào âm trừ Cửu Nhị làm chủ quẻ. Dương cương đắc trung, hình dung như một tướng lĩnh đem quân đi đánh giặc. Trượng nhân là tiếng để gọi bậc trưởng lão, cái đạo dùng quân lợi về được chính đính, mà phải dùng người lão thành, mới được tốt mà không lo có lỗi.

Hình ảnh quẻ Địa Thủy Sư

Thoán từ: Sư trinh, trượng nhân cát, vô cữu.

Quân đội mà chính đáng (có thể hiểu là bên chí), có người chỉ huy lão thành thì tốt, không lỗi.
(Có sách hảo hai chữ “trượng [ 丈] nhân” chính là “đại [大] nhân) người tài đức)

Tượng quẻ: Quẻ Sư dưới Khảm trên Khôn. Khảm là nước. Khôn là đất. Đời xưa ngụ hình ở nông, thường núp cái rất hiểm chỗ cả thuận, giấu cái không thể lường trong chỗ rất tĩnh.

Trên là Khôn, dưới là Khảm mà sao lại có nghĩa là đám đông, là quân đội ? có 4 cách giảng:
- Đại tượng truyện bảo Khôn là đất, Khảm là nước, ở giữa đất có nước tụ lại, tượng là quần chúng nhóm họp thành đám đông.
- Chu Hi bảo ở dưới, Khảm là hiểm; ở trên, Khôn là thuận; người xưa gởi binh ở trong việc nông (thời bình là nông dân, nhưng vẫn tập tành võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông).
- Chu Hi còn giảng cách nữa: hào 2 là dương, nằm ở giữa nội quái là tượng ông tướng, 5 hào kia là âm nhu, mềm mại, giao quyền cho 2 điều khiển quân lính (4 hào kia).
Thoán truyện giảng: xuất quân là việc nguy hiểm (quẻ Khảm), độc hại, nhưng nếu xuất quân vì chính nghĩa (trinh chính), để trừ bạo an dân thì dân sẽ theo (Khôn: thuận), sẽ giúp đỡ mình, mình sai khiến được, thì sẽ tốt, lập được nghiệp vương thống trị thiên hạ, không có tội lỗi.

2. Quẻ Địa Thủy Sư động hào nhất theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

風波今已息
舟楫遇安流
自此功名遂
何須歎白頭.

Dịch âm:

Phong ba kim dĩ tức
Châu tiếp ngộ an lưu
Tự thử công danh toại
Hà tu thán bạch đầu.

Dịch nghĩa:

Sóng gió nay đã yên
Thuyền tiếp tục lên đường
Từ giờ công danh toại
Sao còn than bạc đầu.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Sư xuất dĩ luật, phủ tàng hung." (Quân đội xuất chinh cần phải có kỷ luật, không tuân thủ tất có tai họa.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về người lữ khách cô đơn nơi xứ người, đang ở trong cảnh truân chuyên mà không người thân thích an ủi hay giúp đỡ. Thời vận của bạn hiện không có gì may mắn, những mưu cầu của bạn khó mà đạt thành theo ý muốn. Nhưng dù sự tình có ngặt nghèo đến đâu cũng đứng có oán than, mà phải cố gắng vượt qua, chờ thời cơ mới đến.
Quẻ này chủ người cô khách lạc bước chốn quê người, truân chuyên không người thân thích an ủi giúp đỡ. Mưu đồ mà chẳng xong, hoặc lại còn mất tiền sinh họa. Trong trường hợp này, chi bằng nên hết sức nhẫn nại, khôn khéo lo liệu mọi việc cho êm là hơn cả.
Ý quẻ cho biết thời vận của bạn hiện nay như núi bị mây phủ, xa quê nhớ cố hương, sầu buồn, lại thêm cảnh chiều trời lặn, nghĩa là không có gì may mắn cả.
Vậy những việc cầu xin của bạn khó mà thành đạt theo ý muốn. Nhưng bài thơ câu thứ ba có khuyên bạn rằng dù việc đến ngặt nghèo đừng có oán than. Đó là định mệnh hay quẻ có ý dạy người phải cố gắng vượt qua trở ngại, để chờ ngày rạng đông đó.
Mọi việc đều bế tắc, chỉ nên chờ đợi thời cơ đến. Nên ẩn nhẫn.
Đánh số thua.

Con số linh ứng: 3, 4, 8, 34, 38, 43, 48, 84.