KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 346 - ĐỊA SƠN KHIÊM ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Địa Sơn Khiêm trong Kinh Dịch

Địa Sơn Khiêm: Thoái dã. Cáo thoái. Khiêm tốn, nhún nhường, khiêm từ, cáo thoái, từ giã, lui vào trong, giữ gìn, nhốt vào trong, đóng cửa. Thượng hạ mông lung chi tượng: tượng trên dưới hoang mang.
Đại hữu là thời rất thịnh, không nên để cho quá đầy, mà nên nhún nhường, nên Khiêm.

Quẻ Khiêm đắc chính với hào chủ là hào Cửu Tam của hạ quái. Tượng trưng cho bậc quân tử đóng nhiều công lao cho đời, tài giỏi nhưng lại có đức tính khiêm tốn, chịu đựng thể hiện ở thượng quái Âm. Chính sự nhún nhường tuy tạo những bất đồng nhưng kết cục quẻ Khiêm luôn có kết quả tốt.

Hình ảnh quẻ Địa Sơn Khiêm

Thoán từ: Khiêm hanh, quân tử hữu chung.

Nhún nhường, hanh thông, người quân tử giữ được trọn vẹn tới cuối.

Tượng quẻ: Ngoại quái Khôn, nội quái Cấn, là quân tử dĩ biến đa ích quả và xứng vật bình thí. Được hiểu là trong đất có núi, nên bớt đi chỗ nhiều để bù vào chỗ ít để cân xứng các sự vật.

Trên là đất, dưới là núi. Núi cao, đất thấp, núi chịu ở dưới đất là cái tượng nhún nhường. Khiêm hạ. Vì vậy mà được hanh thông.
Quẻ này chỉ có mỗi một hào dương, dùng nó làm chủ quẻ.
Thoán truyện bàn thêm: Khiêm là đạo của trời, đất và người .
Trời có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ; đất có đức khiêm vì chịu ở dưới mà đi lên. Đạo trời, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém (khiêm) thì bù đắp cho (Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm). Đạo đất, đạo quỉ thần cũng vậy. Còn đạo người thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm). Hễ khiêm thì ở địa vị cao mà đạo càng sáng, ở địa vị thấp mà chẳng ai vượt mình được.
Đại tượng truyện. Khuyên người quân tử nên bớt chốn nhiều, bù chốn ít, để cho sự vật được cân xứng, quân bình (Biều đa ích quả, xứng vật bình thí).

2. Quẻ Địa Sơn Khiêm động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

雲散月當空
牛前馬後逢
張弓方抵禦
一箭定全功.

Dịch âm:

Vân tán nguyệt đương không
Ngưu tiền mã hậu phùng
Trương cung phương để ngự
Nhất tiễn định toàn công.

Dịch nghĩa:

Mây tan trăng trên trời
Trước trâu sau ngựa gặp
Giương cung lên phòng ngự
Một mũi tên định thành công danh.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Lý sương, kiên băng chí." (Đạp lên sương thu thì biết băng cứng, mùa đông sắp tới.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về ở đát khách quê người không bằng trở về quê nhà. Người được quẻ này nên khiêm tốn mà tự cảnh tỉnh. Mọi mưu cầu của bạn tuy có trắc trở nhưng không có gì đáng lo. Nếu bạn xử trí cho đúng phép thì sẽ toại nguyện.
Quẻ này chủ ở lâu nơi đất khách nên mong muốn về nhà. Đời phiêu bạt giang hồ bao năm nên một mình than thở với mình. Quay đầu về với gia đình, tất nhiên là vui sướng khi sum hợp với người thân. Thật chỉ tiếc không có cánh để mà bay ngay về chốn quê hương yêu dấu đã bao năm xa cách. Người xin trúng quẻ này chính đang có cái cảnh tượng nhớ nhung bâng khuâng như vậy.
Quẻ thơ nói người nào mà chẳng thương nhớ quê nhà, nhất là nơi đất khách quê người, trăng mờ và mưa rơi tầm tã bao nhiêu càng thương nhớ bấy nhiêu.
Ý quẻ muốn nói sự cầu của bạn tuy có trục trặc và trắc trở nhưng không có gì đáng lo. Nếu bạn biết nghĩ ra và lý trí xử đời thì sẽ toại nguyện công thành.
Chẳng có gì hay, chỉ toàn cảnh băn khoăn, luyến nhớ, đang hẩm vậy, chớ tính toán. Đánh số hỏng.

Con số linh ứng: 3, 4, 5, 34, 35, 43, 54.