KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 345 - ĐỊA SƠN KHIÊM ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Địa Sơn Khiêm trong Kinh Dịch

Địa Sơn Khiêm: Thoái dã. Cáo thoái. Khiêm tốn, nhún nhường, khiêm từ, cáo thoái, từ giã, lui vào trong, giữ gìn, nhốt vào trong, đóng cửa. Thượng hạ mông lung chi tượng: tượng trên dưới hoang mang.
Đại hữu là thời rất thịnh, không nên để cho quá đầy, mà nên nhún nhường, nên Khiêm.

Quẻ Khiêm đắc chính với hào chủ là hào Cửu Tam của hạ quái. Tượng trưng cho bậc quân tử đóng nhiều công lao cho đời, tài giỏi nhưng lại có đức tính khiêm tốn, chịu đựng thể hiện ở thượng quái Âm. Chính sự nhún nhường tuy tạo những bất đồng nhưng kết cục quẻ Khiêm luôn có kết quả tốt.

Hình ảnh quẻ Địa Sơn Khiêm

Thoán từ: Khiêm hanh, quân tử hữu chung.

Nhún nhường, hanh thông, người quân tử giữ được trọn vẹn tới cuối.

Tượng quẻ: Ngoại quái Khôn, nội quái Cấn, là quân tử dĩ biến đa ích quả và xứng vật bình thí. Được hiểu là trong đất có núi, nên bớt đi chỗ nhiều để bù vào chỗ ít để cân xứng các sự vật.

Trên là đất, dưới là núi. Núi cao, đất thấp, núi chịu ở dưới đất là cái tượng nhún nhường. Khiêm hạ. Vì vậy mà được hanh thông.
Quẻ này chỉ có mỗi một hào dương, dùng nó làm chủ quẻ.
Thoán truyện bàn thêm: Khiêm là đạo của trời, đất và người .
Trời có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ; đất có đức khiêm vì chịu ở dưới mà đi lên. Đạo trời, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém (khiêm) thì bù đắp cho (Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm). Đạo đất, đạo quỉ thần cũng vậy. Còn đạo người thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm). Hễ khiêm thì ở địa vị cao mà đạo càng sáng, ở địa vị thấp mà chẳng ai vượt mình được.
Đại tượng truyện. Khuyên người quân tử nên bớt chốn nhiều, bù chốn ít, để cho sự vật được cân xứng, quân bình (Biều đa ích quả, xứng vật bình thí).

2. Quẻ Địa Sơn Khiêm động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

誰說故鄉無滋味
飄零湖海在天涯
任咨嗟
中秋月隱春雨淋花
多少征人長憶家.

Dịch âm:

Thuỳ thuyết cố hương vô tư vị
Phiêu linh hồ hải tại thiên nhai
Nhậm tư ta
Trung thu nguyệt ẩn
Xuân vũ lâm hoa
Đa thiểu chinh nhân trường ức gia.

Dịch nghĩa:

Ai bảo rằng quê xưa không có mùi vị, tại sao khi phiêu linh hồ biển đến góc trời lại nhớ cố hương quay quắt? Nhất là những ngày Trung Thu không có trăng, mưa phùn lất phất khóm hoa, biết bao nhiêu chinh nhân tha thiết nhớ
Nhà.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Lao khiêm. Quân tử hữu chung." (Siêng năng mà khiêm tốn. Quân tử sẽ có kết quả tốt.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về phải hợp sức mới tốt. Phàm việc mưu cầu của bạn cần phải nhờ người góp sức mà làm thì mới thành công. Quẻ này cầu lợi, cầu danh đều đạt được, nhưng hơi chậm.
Quẻ này xin xem bệnh thì bệnh bình thường, xin xem mưu sự thì thế nào việc cũng được dăm phần, xin xem việc giao dịch thì việc được thư dần, xin xem việc trồng trọt thì trồng trọt có gặt hái, xin xem việc gia trạch thì nhà cửa vẫn như cũ, xin xem việc khẩu thiệt thì phải lưu tâm cố tránh.
Ý quẻ nói rằng phàm việc cầu xin và mưu tính của bạn cần phải sức hợp vui với người ta, góp sức mà làm thì mới may mắn và thành công, ngược lại nếu một mình cô độc thì thực là khó khăn và không thành công.
Thực vậy, tục ngữ có câu: "Nhứt đoán như nhân kết trường nghĩa" là một người sức kém thì hai người sức sẽ mạnh hơn. Vậy những việc bạn xin hãy nên hợp sức nương nhờ người ta mà làm nên việc.
Phải đoàn kết hợp quân, chia rẽ chẳng nên công. Biết làm như vậy, ắt sau sẽ sang giàu. Đánh số được.

Con số linh ứng: 3, 4, 34, 43, 44.