KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 347 - ĐỊA SƠN KHIÊM ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Địa Sơn Khiêm trong Kinh Dịch

Địa Sơn Khiêm: Thoái dã. Cáo thoái. Khiêm tốn, nhún nhường, khiêm từ, cáo thoái, từ giã, lui vào trong, giữ gìn, nhốt vào trong, đóng cửa. Thượng hạ mông lung chi tượng: tượng trên dưới hoang mang.
Đại hữu là thời rất thịnh, không nên để cho quá đầy, mà nên nhún nhường, nên Khiêm.

Quẻ Khiêm đắc chính với hào chủ là hào Cửu Tam của hạ quái. Tượng trưng cho bậc quân tử đóng nhiều công lao cho đời, tài giỏi nhưng lại có đức tính khiêm tốn, chịu đựng thể hiện ở thượng quái Âm. Chính sự nhún nhường tuy tạo những bất đồng nhưng kết cục quẻ Khiêm luôn có kết quả tốt.

Hình ảnh quẻ Địa Sơn Khiêm

Thoán từ: Khiêm hanh, quân tử hữu chung.

Nhún nhường, hanh thông, người quân tử giữ được trọn vẹn tới cuối.

Tượng quẻ: Ngoại quái Khôn, nội quái Cấn, là quân tử dĩ biến đa ích quả và xứng vật bình thí. Được hiểu là trong đất có núi, nên bớt đi chỗ nhiều để bù vào chỗ ít để cân xứng các sự vật.

Trên là đất, dưới là núi. Núi cao, đất thấp, núi chịu ở dưới đất là cái tượng nhún nhường. Khiêm hạ. Vì vậy mà được hanh thông.
Quẻ này chỉ có mỗi một hào dương, dùng nó làm chủ quẻ.
Thoán truyện bàn thêm: Khiêm là đạo của trời, đất và người .
Trời có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ; đất có đức khiêm vì chịu ở dưới mà đi lên. Đạo trời, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém (khiêm) thì bù đắp cho (Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm). Đạo đất, đạo quỉ thần cũng vậy. Còn đạo người thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm). Hễ khiêm thì ở địa vị cao mà đạo càng sáng, ở địa vị thấp mà chẳng ai vượt mình được.
Đại tượng truyện. Khuyên người quân tử nên bớt chốn nhiều, bù chốn ít, để cho sự vật được cân xứng, quân bình (Biều đa ích quả, xứng vật bình thí).

2. Quẻ Địa Sơn Khiêm động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

馬進徐行似有程
月沈西海日東升
運來何必勞心力
風送江湖萬里清.

Dịch âm:

Mã tiến từ hàng tự hữu trình
Nguyệt trầm tây hải nhật đông thăng
Vận lai hà tất lao tâm lực
Phong tống giang hồ vạn lí thanh.

Dịch nghĩa:

Ngựa theo thứ tự bước lên đường
Trăng chìm xuống biển Tây
Mặt trời lênhướng Đông
Khi vận tốt đến khỏi phải hao phí tâm lực
Gió đưa sông hồ ngàn dặm trong.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Bất phú dĩ kỳ lân, lợi dụng xâm phạt. Vô bất lợi." (Bị nước láng giềng làm cho không giàu có thì nên đánh họ. Không có gì bất lợi.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về thời vận đã hanh thông. Nhưng bất cứ điều lợi gì ở đời cũng đều lao khổ mới được. Không có dâng không cho mình. Người được quẻ này nên tiến hành những công việc mà mình mưu cầu thì nhất định sẽ thành công.
Quẻ này chủ bất cứ một chuyện gì mưu tính hành động. Đều phải nhờ cần khổ mới thành công được. Nếu không thì quyết chẳng có lý gì mà có kết quả tốt đẹp được. Người xin được quẻ này xin chớ lầm.
Ý quẻ cho rằng đến lúc trời trăng sáng mây tan, thì thời vận mới tốt, lúc đó bạn nên tiến hành những công việc cầu xin thì nhứt định: "Mã đáo công thành" chẳng có gì trắc trở. Bạn hãy chuẩn bị đi, để đón ngày vinh quang.
Hanh thông, thời vận chỉ một tên cũng đoạt được toàn công. Sự sự như ý sở cầu. Biểu tượng: ngựa, trâu. Đánh số rất tốt.

Con số linh ứng: 3, 4, 6, 34, 36, 43, 63, 64.