KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 348 - ĐỊA SƠN KHIÊM ĐỘNG HÀO LỤC

1. Quẻ Địa Sơn Khiêm trong Kinh Dịch

Địa Sơn Khiêm: Thoái dã. Cáo thoái. Khiêm tốn, nhún nhường, khiêm từ, cáo thoái, từ giã, lui vào trong, giữ gìn, nhốt vào trong, đóng cửa. Thượng hạ mông lung chi tượng: tượng trên dưới hoang mang.
Đại hữu là thời rất thịnh, không nên để cho quá đầy, mà nên nhún nhường, nên Khiêm.

Quẻ Khiêm đắc chính với hào chủ là hào Cửu Tam của hạ quái. Tượng trưng cho bậc quân tử đóng nhiều công lao cho đời, tài giỏi nhưng lại có đức tính khiêm tốn, chịu đựng thể hiện ở thượng quái Âm. Chính sự nhún nhường tuy tạo những bất đồng nhưng kết cục quẻ Khiêm luôn có kết quả tốt.

Hình ảnh quẻ Địa Sơn Khiêm

Thoán từ: Khiêm hanh, quân tử hữu chung.

Nhún nhường, hanh thông, người quân tử giữ được trọn vẹn tới cuối.

Tượng quẻ: Ngoại quái Khôn, nội quái Cấn, là quân tử dĩ biến đa ích quả và xứng vật bình thí. Được hiểu là trong đất có núi, nên bớt đi chỗ nhiều để bù vào chỗ ít để cân xứng các sự vật.

Trên là đất, dưới là núi. Núi cao, đất thấp, núi chịu ở dưới đất là cái tượng nhún nhường. Khiêm hạ. Vì vậy mà được hanh thông.
Quẻ này chỉ có mỗi một hào dương, dùng nó làm chủ quẻ.
Thoán truyện bàn thêm: Khiêm là đạo của trời, đất và người .
Trời có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ; đất có đức khiêm vì chịu ở dưới mà đi lên. Đạo trời, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém (khiêm) thì bù đắp cho (Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm). Đạo đất, đạo quỉ thần cũng vậy. Còn đạo người thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm). Hễ khiêm thì ở địa vị cao mà đạo càng sáng, ở địa vị thấp mà chẳng ai vượt mình được.
Đại tượng truyện. Khuyên người quân tử nên bớt chốn nhiều, bù chốn ít, để cho sự vật được cân xứng, quân bình (Biều đa ích quả, xứng vật bình thí).

2. Quẻ Địa Sơn Khiêm động hào lục theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

雲橫山際水茫茫
千里長途望故鄉
蹇厄事來君莫恨
倚門惆悵立斜陽.

Dịch âm:

Vân hoành sơn tế thuỷ mang mang
Thiên lí trường đồ vọng cố hương
Kiển ách sự lai quân mạc hận
Ỷ môn trù trướng lập tà dương.

Dịch nghĩa:

Mây ngang đỉnh núi
Nước mênh mông
Ngàn dặm đường xa nhớ cố hương
Khổ khó phủ vây xin chớ hận
Buồn rầu tựa cửa ngóng tà dương.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Minh khiêm, lợi dụng hành sự chinh ấp quốc." (Đã có danh vọng mà lại khiêm tốn. Hào này có lợi đối với việc dấy binh đi chinh phạt.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng hanh thông, việc chẳng cần phải mệt nhọc mà vẫn được. Việc mưu cầu của bạn ắt sẽ được toại nguyện, nhưng chậm, mà sự chậm chạp này mới vững bền.
Quẻ này báo biết yên ổn hết sức, chẳng phải mệt nhọc mà vẫn được. Tuy nhiên không nên cố ý làm cho mau sang chóng giàu, trái lại chỉ nên từ từ, cốt sao giữ được lòng bền bỉ lâu dài, nếu không, trong cái không biến thành cái có đáng lo ngại. Người xin được quẻ này coi như được một quẻ tốt.
Theo ý quẻ cho hay, việc cầu xin của bạn ắt được toại nguyện trong nay mai, tuy nhiên hơi có phần nào chưa được thuận tiện lắm. Bởi bài quẻ mách rằng công việc đang cầu như con ngựa đi chậm chạp, mà sự chậm chạp đó mới vững bước. Rồi tương lai tăm tiếng vang dội vô cùng. Lúc đó không cần sợ lao tâm tổn chí nữa.
Thời vận thông hanh. Nhưng cần chờ đợi, chậm chút mà thôi. Biểu tượng: ngựa. Đánh

Con số linh ứng: 3, 4, 7, 34, 37, 43, 74.