KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 359 - ĐỊA PHONG THĂNG ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Địa Phong Thăng trong Kinh Dịch

Địa Phong Thăng: Tiến dã. Tiến thủ. Thăng tiến, trực chỉ, tiến mau, bay lên, vọt tới trước, bay lên không trung, thăng chức, thăng hà. Phù giao trực thượng chi tượng: chà đạp để ngoi lên trên.
Nhóm họp lại thì tất nhiên chồng chất mãi lên, cho nên sau quẻ tụy đến quẻ Thăng (lên).

Quẻ Thăng thể hiện cơ hội thuận tiện cho công danh sự nghiệp thăng tiến. Muốn vươn lên địa vị cao hơn thì cần đức tính khiêm, nhún nhường, thiện cảm của nội quái Tốn và liên tục bồi dưỡng tự lực và biết cách lấy lòng đối thủ.

Hình ảnh quẻ Địa Phong Thăng

Thoán từ: Thăng nguyên hanh, dụng kiến đại nhân, vật tuất, nam chinh cát.

Lên: rất hanh thông, phải dùng người có tài đức (đại nhân), không có gì là lo ngại, cứ tiến về phía trước thì tốt.

Tượng quẻ: Ngoại quái Khôn, nội quái Tốn tức là cây đang lên lên dần dần từ trong lòng đất. Ngoại quái Khôn đức thuận, nội quái đức khiêm là người khác thuận theo mình nên giúp mình tiến lên.

Tốn là gió mà cũng là cây. Ở đây hiểu là cây. Cây mọc ở dưới đất, mỗi ngày mỗi đâm lên cao, cho nên gọi là quẻ Thăng.
Cũng có thể hiểu: Khốn vôn là âm nhu mà tiến lên ngoại quái là vì thời tiến lên thì nên như vậy chứ bình thường thì dương mới thăng mà âm thì giáng. Tốn có tính nhún, khôn có tính thuận; lại thêm hào 5 âm có đức nhu và trung, ứng với hào 2 có đức dương cương, cho nên rất hanh thông. Phải dùng người có tài đức (hào 2) thì mới không có gì lo ngại. "Nam chinh" là tiến về phía trước mặt, chứ không có nghĩa là tiến về phía Nam.
Đại Tượng truyện khuyên xem quẻ này nên thuận đạo mà sửa đức, mỗi ngày một chút, lần lần sẽ rất cao (tích tiểu dĩ cao đại).

2. Quẻ Địa Phong Thăng động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

天念苦修人
終不落紅塵
清心能見道
擾擾喪真靈.

Dịch âm:

Thiên niệm khổ tu nhân
Chung bất lạc hồng trần
Thanh tâm năng kiến đạo
Nhiễu nhiễu táng chân linh.

Dịch nghĩa:

Trời biết người khổ tu
Rốt ráo không rơi xuống hồng trần
Lòng trong trắng có thể thấy đạo
Sự phiền nhiễu làm mất chân linh.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Trinh cát. Thăng giai." (Hào này tốt đẹp. Lên cao từng bậc.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về phàm muốn làm việc gì thì phải lấy hết ruột gan ra để thực hiện, phải có dũng khí xông tới, lúc đó thành hay bại cũng chẳng sao. Nếu chỉ vì chút ít trở ngại mà nhút nát, sợ khó thì chẳng những công lao bao lâu nay mất mết mà kẻ địch còn thừa dịp đến hại bạn. Người được quẻ này nên gan dạ và tính toán cẩn thận, ắt được toại nguyện. Phàm việc thành hay bại là do ở tời mà cũng do sức mình.
Quẻ này chủ trương nếu có bị thất bại một chút ít, cũng chẳng đủ để lo ngại. Trái lại, ta còn phải làm tiếp, làm hăng hơn, luôn luôn phải giữ vững lập trường chủ trương. Nếu chỉ vì chút ít thất bại mà rút lui, sợ khó thì chẳng những công lao thưở trước đều mất hết mà đến kẻ địch cũng thừa dịp đến hại ta. Người xin được quẻ này nên phải rõ lẽ đó.
Ý quẻ cho hay việc cầu xin của bạn chẳng khó mà chẳng dễ. Người chỉ nên gan dạ và tính toán cẩn thận trong bước tiến ắt được toại nguyện. Như quẻ thơ nói rất rõ "Cẩn thận làm gan, chẳng sợ gì, dù công việc hỏng, có hề chi" và câu chót lại nói "Nẽo nọ đường này mình cứ đi", vậy còn gì nghi vấn và chần chờ mà không cố gắng, để tìm một tương lai huy hoàng.
Cứ việc tính, thành bại do trời và do sức mình, thì lo gì. Trăm bó đuốc thế nào cũng bắt được một con ếch, chớ lo. Đánh số vừa phải.

Con số linh ứng: 3, 5, 8, 35, 53, 58, 85.