KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 368 - ĐỊA HỎA MINH DI ĐỘNG HÀO NHỊ

1. Quẻ Địa Hỏa Minh Di trong Kinh Dịch

Địa Hỏa Minh Di: Thương dã. Hại đau. Thương tích, bệnh hoạn, buồn lo, đau lòng, ánh sáng bị tổn thương. Kinh cức mãn đồ chi tượng: gai góc đầy đường.
Tiến lên thì tất có lúc bị thương tổn, cho nên sau quẻ Tấn tiếp tới Minh di. Di [夷] nghĩa là thương tổn.

Quẻ Minh Di thể hiện tình thế bất lợi, khó đương đầu với những khó khăn trở ngại. Đó là sự vùi lấp tài trí dưới một chính sách mê muội. Muốn tránh Di thì dùng đức tính sáng suốt (Ly) và nhu thuận (Khôn) mới trốn khỏi nơi ô uế được.

Hình ảnh quẻ Địa Hỏa Minh Di

Thoán từ: Minh di lợi gian trinh.

Ánh sáng bị tổn hại, chịu gian nan, giữ điều chính thì lợi.

Tượng quẻ: Ngoại quái Khôn, nội quái Ly là mặt trời lặn xuống những ánh sáng mặt trời bị che lấp, tượng trưng cho những người tài phải biết cách giấu tài mới mong thoát được nạn.

Quẻ này ngược với quẻ Tấn ở trên; mặt trời (ly) lặn xuống dưới đất (Khôn) ánh sáng bị tổn hại, tối đi (Minh di).
Người quân tử ở thời u ám này, gặp nhiều gian nan, chỉ có cách giữ đức chính trinh của mình thì mới có lợi. Muốn vậy thì ở trong lòng giữ đức sáng mà ở ngoài thì nhu thuận để chống với hoạn nạn như tượng của quẻ Ly là sáng văn minh ở nội quái, Khôn là nhu thuận ở ngoại quái. Vua Văn Vương bị vua Trụ nghi ngờ, giam vào ngọc Dữu Lý, tỏ vẻ rất nhu thuận, không chống đối Trụ, mà để hết tâm trí vào việc viết Thoán từ giảng các quẻ trong Kinh Dịch, nhờ vậy Trụ không có cớ gì để giết, sau thả ông ra.
Không những ở ngoài phải tỏ vẻ nhu thuận, mà có khi còn nên giấu sự sáng suốt của mình đi nữa mà trong lòng vẫn giữ chí hướng, như Cơ tử một hoàng thân của Trụ. Trụ vô đạo, Cơ Tử can không được, giả điên, làm nô lệ, để khỏi bị giết, mong có cơ hội tái tạo lại nhà Ân; khi nhà Ân mất, ông không chết với Trụ, cũng không bỏ nước ra đi. Võ vương – con Văn Vương – diệt Trụ rồi, trọng tư cách Cơ Tử, mời ra giúp nước, ông không chịu; sau Võ vương cho ra ở Triều Tiên, lập một nước riêng. Như vậy là Cơ Tử giấu sự sáng suốt của mình để giữ vững chí, không làm mất dòng dõi nhà Ân (Hối kì minh, nội nạn nhi năng chính kì chí – Thoán truyện).
Đại tượng truyện bảo quân tử gặp thời Minh di, muốn thống ngự quần chúng nên dùng cách kín đáo mà lại thấy được rõ (dụng hối nhi minh), nghĩa là dùng thủ đoạn làm ngơ cho kẻ tiểu nhân , đừng rạch ròi, nghiêm khắc quá mà sẽ bị hại, tóm lại là làm bộ như không biết để chúng không nghi ngờ mình và để lộ hết dụng tâm của chúng ra mà mình sẽ biết được. Cơ hồ tác giả Đại tượng truyện muốn dùng thuật của Hàn Phi.

2. Quẻ Địa Hỏa Minh Di động hào nhị theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

龍一吟
雲便興
沖霄直上
快睹太平
為文為武
君君臣臣.

Dịch âm:

Long nhất ngâm
Vân tiện hứng
Xung tiêu trực thướng
Khoái đổ thái bình
Vi văn vi vũ
Quân quân thần thần.

Dịch nghĩa:

Rồng kêu lên
Mây liền nổi
Bay thẳng lên trời
Nhanh thấy thái bình
Làm vănlàm vũ
Vua vua tôi tôi.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Minh di, vu tả cổ, dụng chửng mã tráng. Cát." (Con chim trĩ kêu, bị thương ở đùi trái. Đó là người ngồi trên con ngựa khỏe đuổi bắn. Hào này cát tường.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về mọi việc đều được như ý. Người được quẻ này mưu cầu bất cứ điều gì cũng đều được tốt lành. Nhất là về tình duyên, trai được vợ hiền, gái thì có chồng sang, hạnh phúc một đời.
Quẻ này chủ mọi việc đều như ý, bất cứ ở đâu cũng yên thân. Người bói được quẻ này bất cứ hỏi điều gì cũng đều được tốt lành cả. Cho nên khỏi cần phải nghi ngại lo sợ gì.
Ý quẻ dạy rằng: sự cầu xin của bạn, nhứt về tình duyên, ắt sẽ mỹ mãn tốt đẹp. Trai được vợ hiền, gái có chồng sang, hạnh phúc một đời. Vì câu thơ trong quẻ tả rằng. Tìm vui ngày xuân lại gặp hoa nở. Bông nào cũng tươi, cành nào cũng tốt. Nghĩa là tất cả đều tốt không gì chê được.
Tốt đẹp. Hỉ hỉ, sự sự như ý sở cầu. Đánh

Con số linh ứng: 3, 6, 7, 36, 63, 67, 76.