KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 371 - ĐỊA HỎA MINH DI ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Địa Hỏa Minh Di trong Kinh Dịch

Địa Hỏa Minh Di: Thương dã. Hại đau. Thương tích, bệnh hoạn, buồn lo, đau lòng, ánh sáng bị tổn thương. Kinh cức mãn đồ chi tượng: gai góc đầy đường.
Tiến lên thì tất có lúc bị thương tổn, cho nên sau quẻ Tấn tiếp tới Minh di. Di [夷] nghĩa là thương tổn.

Quẻ Minh Di thể hiện tình thế bất lợi, khó đương đầu với những khó khăn trở ngại. Đó là sự vùi lấp tài trí dưới một chính sách mê muội. Muốn tránh Di thì dùng đức tính sáng suốt (Ly) và nhu thuận (Khôn) mới trốn khỏi nơi ô uế được.

Hình ảnh quẻ Địa Hỏa Minh Di

Thoán từ: Minh di lợi gian trinh.

Ánh sáng bị tổn hại, chịu gian nan, giữ điều chính thì lợi.

Tượng quẻ: Ngoại quái Khôn, nội quái Ly là mặt trời lặn xuống những ánh sáng mặt trời bị che lấp, tượng trưng cho những người tài phải biết cách giấu tài mới mong thoát được nạn.

Quẻ này ngược với quẻ Tấn ở trên; mặt trời (ly) lặn xuống dưới đất (Khôn) ánh sáng bị tổn hại, tối đi (Minh di).
Người quân tử ở thời u ám này, gặp nhiều gian nan, chỉ có cách giữ đức chính trinh của mình thì mới có lợi. Muốn vậy thì ở trong lòng giữ đức sáng mà ở ngoài thì nhu thuận để chống với hoạn nạn như tượng của quẻ Ly là sáng văn minh ở nội quái, Khôn là nhu thuận ở ngoại quái. Vua Văn Vương bị vua Trụ nghi ngờ, giam vào ngọc Dữu Lý, tỏ vẻ rất nhu thuận, không chống đối Trụ, mà để hết tâm trí vào việc viết Thoán từ giảng các quẻ trong Kinh Dịch, nhờ vậy Trụ không có cớ gì để giết, sau thả ông ra.
Không những ở ngoài phải tỏ vẻ nhu thuận, mà có khi còn nên giấu sự sáng suốt của mình đi nữa mà trong lòng vẫn giữ chí hướng, như Cơ tử một hoàng thân của Trụ. Trụ vô đạo, Cơ Tử can không được, giả điên, làm nô lệ, để khỏi bị giết, mong có cơ hội tái tạo lại nhà Ân; khi nhà Ân mất, ông không chết với Trụ, cũng không bỏ nước ra đi. Võ vương – con Văn Vương – diệt Trụ rồi, trọng tư cách Cơ Tử, mời ra giúp nước, ông không chịu; sau Võ vương cho ra ở Triều Tiên, lập một nước riêng. Như vậy là Cơ Tử giấu sự sáng suốt của mình để giữ vững chí, không làm mất dòng dõi nhà Ân (Hối kì minh, nội nạn nhi năng chính kì chí – Thoán truyện).
Đại tượng truyện bảo quân tử gặp thời Minh di, muốn thống ngự quần chúng nên dùng cách kín đáo mà lại thấy được rõ (dụng hối nhi minh), nghĩa là dùng thủ đoạn làm ngơ cho kẻ tiểu nhân , đừng rạch ròi, nghiêm khắc quá mà sẽ bị hại, tóm lại là làm bộ như không biết để chúng không nghi ngờ mình và để lộ hết dụng tâm của chúng ra mà mình sẽ biết được. Cơ hồ tác giả Đại tượng truyện muốn dùng thuật của Hàn Phi.

2. Quẻ Địa Hỏa Minh Di động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

火遭水克
火滅其光
水勢滔滔
源遠流長.

Dịch âm:

Hoả tao thuỷ khắc
Hoả diệt kỳ quang
Thuỷ thế thao thao
Nguyên viễn lưu trường.

Dịch nghĩa:

Lửa gặp nước khắc
Lửa mất ánh sáng
Thế nước ào ào
Gốc xa chảy dài.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Cơ tử chi minh di. Lợi chinh." (Cơ Tử bắn được con chim trĩ kêu. Hào này có lợi.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về việc trước lo âu, sau vui vẻ. Thời vận của bạn đã hanh thông, chẳng còn gì phải lo ngại, nên cố gắng cầu tiến. Khi mưu cầu đã thành, hãy nhớ đến những kẻ đã từng giú sức cho thì mới được yên lành lâu bền.
Quẻ này chủ trước lo nhưng sau vui. Thiếu niên đắc chí mặc áo gấm về làng, tình đời thương như thế. Người xin được quẻ này coi như xin được quẻ tốt.
"Qua gai gốc đến khang trang" : đó là quẻ cho hay rằng, thời vận của bạn, đã hết rũi đến may rồi và vận trình hanh thông chẳng còn gì lo ngại nữa, nên phải cố gắng cầu tiến đi, ngày vui sướng sắp về với bạn, nhưng quẻ nhắn nhủ rằng, khi sự cầu mưu đã thành như ý, hãy nên nhớ đến những kẻ đã từng phụ sức với bạn trong sự nghiệp, hoặc giả là phải lấy chữ "nghĩa" thì mới được yên lành hơn.
Hanh thông, nhưng lúc thành đạt phải nhớ công người, đừng có trăng rồi phụ đèn. Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 30, 37, 70, 73.